Hôm nay,  

Hoài Ziang Duy: “Con Mắt Trần Gian Thao Thức Mỏi“ Trong ‘Lối Đi Dưới Lá Đời Thà Như Mưa’

21/12/201300:00:00(Xem: 6340)
Hoài Ziang Duy, theo như phần tác giả tự giới thiệu, anh là người làm thơ rất sớm và đồng hành cùng nhiều anh em khác, đặc biệt ở Châu đốc, quê nhà cuả anh. Những Ngô Nguyên Nghiểm, Mặc Lan Hoài, Phạm Yến Anh, Lưu Nhữ Thụy, Nguyễn Thành Xuân…

Gia nhập quân đội và cũng đau niềm đau chung đất nước. Tù đày và bỏ nước ra đi. Xứ người, tâm trạng ray rức, cuộc sống mới đầy những thử thách, và ở anh, khám phá một lối suy nghĩ rất xác thực.

“Từ em tay phố ngỡ ngàng
Từ Hoa thịnh Đốn đem Sàigòn sang
Điệu hò câu hát ngổn ngang
Điệu oan trái khúc điệu tràng tịnh thân
Bước qua phấn bụi hồng trần
Mặt xúc xắc đổ mỗi phần an cư
Dẫu xoay vòng vận bù trừ
Bề trong, mặt trái kẻ thù chính ta”
(Ngày tôi lạ mặt trang 10)


Mùa xuân nơi đất khách đã được nhiều qúi thi nhân miêu tả và qua cá nhân anh nỗi rung động được thể hiện bằng “ môi mềm tỉnh say”, cũng là lẽ thường hằng, nhưng nỗi dằn dặt một bóng dáng quê hương ngàn dặm vẫn trĩu nặng trong lòng:

“Nghe câu chúc tụng ươm lời
Quê hương dáng đứng một thời để yêu
Ngàn tay mộng giấc đăm chiêu
Xuân nay bến vắng đò chiều hỏi thăm
Gọi người một tiếng trăm năm…”
(Bài lục bát đêm xuân trang 11)


Tác giả băn khoăn, đặt cơ hồ không biết bao nhiêu câu hỏi:” Tâm nhân ái thiên đường đóng cửa, sông sâu cạn lắng, đại bác xưa đâu tiếng nghẹn lời, nụ tầm xuân gieo mầm khổ hạnh..”, những dòng tư tưởng chảy miên man trong trí óc còm cõi của tác giả:

”Cứ giả dụ ta làm Từ Thức
Nhớ quê hương lội xuống hồng trần…”


hoặc hoang tưởng rất đổi:

“Phải không em ta còn tổ quốc?
Bỏ quên đâu chẳng thấy đem về
Em có nhặt nửa hồn sỏi vỡ
Ném lại gần đánh thức quê hương”
(Nụ tầm xuân trang 12)


Vẫn chung dòng chảy quê hương, có khác chăng hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn qua vị trí địa lý, nhân văn, tôn giáo của mỗi miền:

“Ta đi bỏ lại quê nhà cũ
Nước đổ bạt ngàn trăn trở nhau
Chẳng hay em nhớ cơn cuồng nộ
Đổ xuống âm thầm gương vỡ đau”


Hay so sánh cùng với đất mới quê người, một nơi cửa nhà luôn luôn đóng và một nơi lúc nào cũng rộng mở:

“Đường hẹp quê nhà ta bắt nhớ
Cuộc đời ai hát nhịp cầu tre
Hôm nay đường rộng quan san bước
Then cài ai khép đứng ngoài khe”
(Đã lỡ cơn đau ngày bóng xế trang 15)


Năm cũ trôi qua, chiến chinh đã tàn, như ước mơ của một người thơ của thập niên sáu mươi:” Em ơi ngựa đã xa bầy- Chiến chinh rồi cũng có ngày sẽ tan- Mặc Yên Thùy”. Nhưng tan như thế cuộc này, đã gây thương tổn cho con người, lúc nào cũng suy tư, mẫn cảm như anh thì thật là oan khiên, nghiệp chướng:

“Nghe tiếng mưa tưởng chừng ai vuốt mặt
Thổi qua đời hạnh phúc đã xanh thêm
Căn nhà dọc nhiều gian ta nằm đất
Chật bề lưng mà rộng lấy tình người
Để mai đó khi tương lai đứng dậy
Đổi tự do ta thêm có nụ cười..”


Câu thơ làm xao xuyến hồn người. ”Chật bề lưng mà rộng lấy tình người.”

Vẫn ai hoài xót xa như Trần Hoài Thư, nhớ những người chiến hữu đã buông tay đâu đó ở một vùng quê Bình Định hay suối rừng Tây Nguyên hoang vu. Ở Hoài Ziang Duy, thân tại ngục trung mà:” Đêm ba mươi ta ngồi nhớ nước- Hồn tịnh tâm sâu lắng xích xiềng- Chén trà thơm tình gìa vị ý- Nước đâu còn cạn nỗi oan khiên”.

Mùa xuân của tác giả, buồn, đau lẫn lộn, dài như đêm ba mươi tối tăm, chờ ngày mai tươi sáng đúng nghĩa, vẹn tình.

“Đêm ba mươi bao người bỏ nước
Bỏ lại phần vị quốc vong thân..”
(Ta nhớ dùm nhau đêm ba mươi trang 17)


Và bâng khuâng tư lự:

“Nỗi buồn sợi tóc chẻ thưa
Ngồi đây dựa gốc tuổi trưa ngóng về..”
(Rừng xưa đã khép trang 19)


Tác giả trăn trở, và dường như chỉ tâm sự với chính mình, một con tim khổ nạn trong bể dâu đời:” Như chuyện kể, tích xưa- Không có kẻ thắng người thua- Chỉ là tuồng bỏ cuộc- Từ bài học phẩm gía chiến tranh- Không có phần tiết hạnh”- Đêm bến sông xưa trang 20).

Tâm tình ấy được thể hiện rõ nét trong bài “Tự tình khúc trang 22”:

“Khi nói ra nhận mình người nước Việt
Chỗ trú chân vẫn lạc địa chỉ buồn
Cảm ơn đời chỗ dung thân lớn
Nhưng nhỏ nhoi tội lấy cội nguồn
Ta bán nầy
Tim mất nước…”.


Nỗi u uất của tác giả chùng nặng tưởng như không bao giờ đặt xuống được. Đi có nghĩa là rời xa một điểm và đến một nơi nào, theo tác giả ví dụ qua toàn bài, tưởng như những hình nhân chuyển động trong cuộc sống. Phương thức đi cũng được tác giả trình bày thú vị như” đi nghĩa là đứng lại, đi bằng hai cẳng ngược, đi làm thi sĩ, sư ôm bình bát, lưng bà chùn bước, từ em vạt nắng chân son, trẻ thơ bước…”. Nhưng trong bước đi ấy vẫn mang nỗi nhớ trong lòng, một không gian mộng tưởng nào đó, một cuộc chia ly khởi thủy từ nguồn cội dân tộc:

“Đi di tản là đi tản mạn
Hành trang mang chỉ một chữ đi
Ngó thấy không gian ngồi phía trước
Sao trời chung mệnh chiếu Thiên di
.
Đi bỏ nước ca câu mất nướ
Lễ nghĩa xưa quân tử gánh gồng
Trứng trăm con nở tràn bọt nước
Mới hay sĩ khí thổi ngoài sông”
(Đi trang 25)


Một ý tưởng lạ, đẹp hay là một mối tình vụng dại của thời thơ ấu, khoảng không gian có áng mây trôi, con hẻm nhỏ ngày hai buổi đi về. Thế sự đổi dời,tình cờ chân bước qua cảnh cũ, một đêm nào thao thức:

“Chị a, bây giờ em mới khóc
Chị khóc dùm em sông nước trôi
Như thể đùm nhau tình khổ nhọc
Một nén hương thơm lạnh chỗ ngồi.”
(Chị trang 27)


Cũng không thể không nhắc đến nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà trong thi tập” Hoa trắng thôi cài trên áo tím” với những câu gợi nhớ đến vùng quê của Hoài Ziang Duy:

“Năm nào thiếu áo không mùng ngủ
Nhớ đến bàn tay gái Thất Sơn
Len lỏi nhổ bàng đươn đệm nóp
Mặc cho tiếng súng vọng bên đồn
.
Qua muà nước nổi vùng Châu Đốc
Nhớ lá Cà Mau, nhớ lóng tre…”
(Đẹp Hậu Giang)


Ở tác giả, tình tự khúc chiết hơn,vì là hơi thở của con người Hoài Ziang Duy trải dài theo năm tháng thăng trầm cuả đời sống. Những gió Cầu Quan, Bồ Đề đạo tràng ngay giữa lòng thành phố, như một biểu hiện rõ nét màu sắc tôn giáo của dân miền Tây, đặc biệt Châu đốc là nơi huyền nhiệm, phát sinh ra nhiều tôn giáo.

“Một thuở mỗi ngày ta đón đợi
Đò chuyến Cồn Tiên, áo trắng sang
Cắn táo Châu giang cười ngọt tiếng
Ai xô câu hát điệu tình tang
……………
Điên điển vàng bông mùa nước nổi
Nhớ dòng An Phú, tủi lòng thương
Nhớ đất Vĩnh Ngươn, trời hiu hắt
Nghe tiếng buồn rơi, rụng cuối vườn
.
Mỹ Đức hẹn muà thơm nhãn chin
Châu Phú đi về rợp bóng nghiêng
Lụa, lảnh Tân Châu còn khép nép
Mía, đường thốt lốt tỏ lương duyên
.
Ở đỉnh núi Sam mây ngó xuống
Em giấc trưa nồng gió Tịnh Biên
Cốm giẹp Tri Tôn mềm điệu múa
Trăng chở đêm rằm buổi chợ phiên…”
(Bài tình nhân xưa trang 29)


Như những lời vỗ về, nâng niu đời nhau trong cuộc sống, nhẹ gót thăng trầm,để thấy đời còn bao dung:

“Sáng thức dậy
Đứng lên từ quá khứ
Chỗ em nằm là chỗ trống đời ta
Chiều hôm qua nắng tìm chim bỏ xứ
Trong mắt em giọt nước đọng bên nhà”
(Thương lấy đời nhau trang 32)


Những câu:” Mưa hay nước mắt hai hàng- Mưa trong hồn lục bát trang 36 “đến “ Trời tháng tư buồn cho cả năm- Ai nhủ lòng đau trang 37”, nỗi đau se sắt nhẹ nhàng đến “ Như là như thế nào trang 38”, cơn đau bật thành tiếng khóc, như một bức hoạ sống, vẽ vời muôn cảnh trạng đau lòng, quyện trong những thanh âm buồn tưởng chừng không rơi rớt một tiếng nhạc hân hoan:

“Như là như thế sao
Ngày vỗ tay hoà bình
Đêm hoan hô ly tán
Mẹ khua giòng nước mắt
Thắt lấy ruột gan”


Hay đắm hồn trong lời tụng niệm “Qua đi qua đi, bên kia bến bờ, qua đi qua đi”…Cuối cùng, tác giả vẫn không tin vào hiện thực phô bày:

“Như là như thế sao
Cứ phải tưởng không là như thế”


Tác giả,dường như, mà nỗi bi thiết siết chặt từng sợi dây thần kinh, máu tim cũng co thắt từng cơn” Thành sầu khổ sao phá vẫn không tan” và “ Sớm hôm nay, ai xuống phố ngỡ ngàng- Chung cây cỏ,màu hoa thay sắc lạ”. Sự từ khước một hiện thực đớn đau vẫn vây chặt lấy mình, tác giả vô hình chung như lạc loài vào cõi âm ty địa ngục, một chấp nhận không thể khả thi cho tác giả vào giai đoạn đen tối này:

“Ta thấy em
Người không quen ngồi khóc
Ghế đá buồn cũng thương xót bâng quơ

Người thân quen trở thành mặt lạ
Người không quên sao gần gũi vô cùng
Phải thế không
Người mang đôi nạng gỗ
Đong đưa mình, chân bỏ ở rừng xưa?”
(Cơn thao thức mù lòa trang 43)


Tác giả có những câu lục bát dễ thương như” Chỉ một mình ta trang 52- Khóc đi câm nín nỗi lòng- Môi khô mắt nghẹn bềnh bồng thời gian- Chén ly bôi vỡ hồn tàn- Nghe khua phố cũ muộn màng gót đêm..” Hoặc quấn quit bên nhau trao đổi chút ân tình:” Dấu sao hương lửa ngọc ngà- Lối đi dưới lá đời thà như mưa- Lối đi dưới lá đời thà như mưa trang 53). Có thể đây là những vướng mắc trong lòng tác giả, nên Hoài Ziang Duy chọn bài thơ này làm nhan đề cho thi tập.

Nội tâm tác giả luôn luôn mâu thuẩn, những ngày hạnh phúc, yên ổn quê người, lại thấy xót xa thời khốn cùng ở quê hương, lúc xa rời lửa đạn lại nghe nằng nặng nỗi trách hờn bản thân với tâm tình vong quốc.

“Đâu phải nầy sông Dịch
Đâu phải làm Kinh Kha
Mới biết đời mưa bụi
Mới biết đời lẻ loi
Của tình ta dậy sóng
Của biển chiều bâng khuâng
Của đời ta tráng sĩ
Tráng sĩ hề buồn tênh”
(Nỗi buồn Kinh Kha trang 59)


Trong “ Hoà bình giã biệt trang 60”, tác giả sầu quay quắt trong vòng kẻm gai, ôm bóng mình cô độc, chí cao mà canh tàn chiếu lụn. Chẳng lẻ không có lối thoát, và an phận kiếp đọa đày. Hoài Ziang Duy hẳn phải nhớ những ngày chiến đấu gian khổ, nhưng có tình chiến hữu, có không khí tự do, cũng xuôi ngược từ Chương Thiện về giải tỏa cho An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Đoạn video này được tác giả lưu giữ như một sử liệu qúi gía vô vàn cho đời chiến đấu cuả anh.

“Chập chờn cơn thức mới
Sống là say hay tỉnh mộng thực đời”


“Đêm mơ từ tiếng nổ” quả là một giấc mơ hiện thực của tác giả, trong đó tình ngưới đứng dậy theo cùng nỗi vui lan tỏa mọi miền đất nước:” Đã sáng lên- Đời hân hoan bước mới- Pháo nổ cao pháo chụp trời tỏa sáng- Ngẩng cao đầu chờ buổi vinh quang”. Tay trong tay reo hò như buổi mai dựng cờ chiến thắng:

“Đường thênh thang trăm nẻo
Rủ nhau cười
Sống một thời bằng một phút sống
Hôm nay
Ôi nước mắt
Phúc ơn đời sung sướng”


Hòa bình đến, cho trẻ thơ những nụ cười, chân tung tăng trên đồng lúa hay bên lũy tre làng, em rạng rỡ môi cười ôm nhành lúa mới, quên đi những ngày nắng xế, những đêm buồn, những đau thương tai kiếp. Ôi cả một trời dấu yêu bừng dậy đón gió tự do. Và nghe tác giả hân hoan đi nối lại tình người,sau những năm bị ngủ quên, bị trói buộc trong thời hoàng hôn nhân thế:

“Thắp lại
Khuôn mặt em hiền dịu nét thanh bình
Môi chúm chím làm lòng anh bắt nhớ
Lún đồng tiền đôi má đỏ
Tự do”
(Hoà bình giã biệt trang 63)


Trường khúc này cuả tác giả như một lời hiệu triệu khích động mọi người tham gia cho ngày hội lớn. Tâm hồn tác giả rung động dạt dào và ước mơ như biển rộng sông dài của ý nghĩa tự do.

Sáu năm trong vòng lao lung, tác giả buồn sâu kín. Nhìn buổi chiều đang chết và đêm thản nhiên trêu ghẹo nỗi xót xa của mình, cũng như chiêm nghiệm nỗi cay đắng về tình bạn đồng minh. Hoài Ziang Duy đã có những ưu tư sâu thẳm, và giọt lệ của anh nếu có là những giọt lệ tiễn đưa hồn người về nơi miên viễn.

“Sáu muà đông trên một chiếc xe tang
Đi qua một nghĩa địa buồn
Của những lãng quên
Bởi niềm tin ở người cùng chủng tộc
Sống bằng lời lừa dối ngụ ngôn”


Do đó, đất nước tác giả rơi vào những hệ lụy, tang thương cùng cực. Đó hẳn phải là nguyên nhân khiến chàng gần như lúc nào phẫn hận:

“Những khu trại tập trung
Của chiến tranh và hòa bình
Hoà bình không chung cùng lý tưởng
Chiến tranh ý thức mà không cùng ý thức
Sống bên nhau mà đau xót hận thù”


Và cuối cùng tác giả cảm hoài:

“Bởi tự do là cuộc đời hai ngăn kéo
Giữ tự do trong cuộc sống tự do
Trên quê hương mà lòng không gần gũi
Bởi bên lề đâu thấy dáng thân quen”
(Sáu mùa đông trên một chiếc xe tang trang 73)


Như một lời trần tình tha thiết gởi người bạn đồng minh trên quê hương Việt Nam nhục nhằn, khổ nạn. Chúng tôi mở vòng tay chào đón sự trợ giúp của các bạn trong hy vọng quê hương chúng tôi sớm có thanh bình. Cùng lúc đó, các anh cũng mang vào những hệ lụy của xã hội cùng nhịp nhàng với cường độ chiến tranh gia tăng:” Với cuộc tình vung vãi rớt rơi – Building đường phố, mìn nổ không thưa”.

“Dân tộc này và ngôn ngữ đó
Níu bàn tay chẳng nắm được bao giờ”


Hay của một tương lai vô định:

“Mỗi chúng ta nhận cho mình hướng sống
Chết là cười một lúc-thảnh thơi”
(Nói với người bạn đồng minh trang 81)


Tâm trạng của những người con nước Việt, ưu thời mẫn thế, nhất là đang ở giai đoạn cầm súng, cách suy nghĩ do đó cũng chân thật, rộng mở hơn.

Trong “Mưa bay trong đời trang 82”, tác giả có những câu thơ nhẹ nhàng: “Yêu đã bao chiều vẫn thấy yêu- Ngàn năm mưa vẫn nói trăm điều- Bâng khuâng nghe chút tình chăn chiếu- Ai lấp ban đầu nỗi tịch liêu” hoặc cùng âm điệu tha thiết trong “ Bàn tay mùa đông trang 83”:

“Thôi mỗi phận người một cảnh riêng
Bàn chân của gió dậy ưu phiền
Em thưa bước dạ như tằm gởi
Trang điểm cho tình mặn mối duyên”


Và trong “ Bài ru Phương Thảo trang 84”, tác giả ngậm ngùi trong thân phận loi lẻ, mồ côi:

“Với đây kỷ niệm ôm nhìn
Tôi trong tôi khóc còn hình dung tôi
Đây em còn nửa vành môi
Còn tê tái lạnh đời trôi nổi,buồn”


Hoặc sầu cảm gặp một người:”Kiếp ca cầm che dấu lấy niềm đau”, hồn thơ rung những cung bậc xót xa:

“Nên dù hát cho nguôi dần thương nhớ
Trăm con buồn rủ đậu chốn đời sang
Thân con gái nay cười ra nước mắt
Ôi ngàn thu lỡ mấy phiếm tơ đàn”
(Ngọt ngào hương phấn trang 87)


Chặng cuối cuộc đời được tác giả phác thảo:” Nấm khô đất lạ đen già tuổi đơn”, lòng vẫn nhớ về phương Đông với cuộc tình thanh xuân:

“Này nghe chim ngủ trong hồn
Giọng thơ lục bát đã xôn xao về”
(Hồi cuối trang 88)


Nằm trong định luật chung của kiếp người, tác giả an nhiên:” Nắm đầu dây thòng lọng- Tự tròng cổ lấy mình”. Hãy chấp nhận những gì xảy ra cho đất nước, hãy âu lo thắp sáng cuộc sống mình. Bởi ước nguyện của tác giả như mây cao, biển rộng, vẽ ra một chân trời mới, một vận hội mới cho quê hương đã tàn lụi theo bụi thời gian:

“Đã chọn trên ngón tay mình phần số muộn
Dẫu có buồn rầu vô hạn
Lãnh đạm với rừng lau
Tội tình ta đốt đuốc
Hủy diệt lấy riêng mình”
(Về chốn bình yên trang 91)


Trong “ Lối đi dưới lá đời thà như mưa”, Hoài Ziang Duy đã dành gần hơn nửa thi phẩm diễn đạt tâm trạng đớn đau, ray rức, đôi khi u uất về một quê hương bị “đóng cửa “rất chân tình và cũng rất tội tình. Nỗi lòng ấy, nếu không phải phát xuất từ tình yêu đất nước đậm đà và trách nhiệm ân cần của người cầm sung, giữ đất, an dân. Chúng ta xem lại những tựa đề:” Đã lỡ cơn đau ngày bóng xế, Ta nhớ dùm ta đêm ba mươi, Đêm bến sông xưa, Như là như thế sao, Nỗi buồn Kinh Kha, Hòa bình giã biệt, Sáu mùa đông trên một chiếc xe tang,Nói với người bạn đồng minh...” là những nỗi niềm, vết đau,đay nghiến hồn tác giả khôn nguôi.

Dù tác giả đã phân chia rõ ba phần chánh trong thi tập: Phần một- Quê hưong, phần hai – Vó bụi chiến trường, phần ba- quê người, nhớ lại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy ẩn hiện, rải rác trong thi tập, vì sao anh bỏ súng và vì sao anh rời quê hương.

Theo thiển ý chúng tôi, tác giả là một người đã dâng hiến trọn tâm hồn và thể xác mình cho quê hương rất tận tụy, một người mà tâm sự lúc nào cũng canh cánh:” Ta đuổi bước- Cuộc hôm nay tiếng nổ đời hẹn ước “để hoài vọng:” Nay đã tỏ- Hoà bình ơi thánh thót...”.

Thơ anh như chất cà phê quánh đặc, khi thưởng thức, chúng tôi chỉ thấm giọng qua vị giác, khoan thai, từ tốn,bởi hồn anh say ngủ trong thơ, kết tinh thành những mạng nhện buồn, hận mênh mang…

Tập thơ do Thân Hữu xuất bản năm 2007

Tranh bìa: Nguyễn Quốc Tuấn

Trình bày & Lay out: Nghiêu Minh

Ấn loát: Huỳnh Thị Bé Năm

Lâm Hảo Dũng

Dec-2013

* (Đây chỉ là cảm nhận riêng tư cuả người đọc thơ viết về một người thơ. Mong qúi bạn đọc thông cảm nếu có gì sai sót).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.