Hôm nay,  

Vui Buồn Của Chuyện Đi Xin Tiền

1/15/201400:00:00(View: 6795)
Tôi tham gia công tác xã hội từ rất lâu, tính đến nay cũng đến ngót 50 năm rồi. Trong việc này, phần nhiều các bạn lại hay phân công cho tôi phải làm sao kiếm được phương tiện vật chất như tiền bạc, vật liệu hay xe cộ… cần thiết cho việc thực hiện công tác. Bởi lẽ loại công việc chúng tôi theo đuổi thì hầu hết là có tính chất tự nguyện, do các anh chị em sinh viên, học sinh còn đang đi học tham gia. Vì thế, mà phải tự túc xoay xở đi xin chỗ này chỗ nọ, làm sao cho có đủ phương tiện cần thiết cho nhu cầu công việc trước mắt cuả tập thể.

Phải nói ngay rằng cái chuyện “vác túi xách đi gõ cửa tứ phương” như vậy, thì thật là vất vả, đôi khi cay đắng, tủi nhục nữa. Nhưng mà, bù lại nhiều khi cũng gặp được những niềm vui thú và an uỉ, đó là nhờ sự hưởng ứng chân tình cuả những vị có tấm lòng rộng rãi, đại lượng. Nay nhân dịp cuối năm Mậu Tý 2008, tôi xin kể lai rai về một số chuyện vui có, buồn có cuả người đi xin tiền, mà bản thân mình đã trải qua lâu nay.

Khởi đầu, thì tôi cũng chỉ đi xin cho mấy dự án nho nhỏ thôi, đại khái tính ra cũng chỉ cần vài ba trăm mỹ kim, cụ thể như để mua sơn, mua vôi để giúp sơn quét lại một trường học nho nhỏ tại miền ngoại ô thành phố; hoặc kiếm ít gỗ để tu sửa lại vài cầu tiêu công cộng. Còn phần thực phẩm, thì thường đi xin cuả mấy bà bán hàng ngoài chợ. Phải nói là các bà tiểu thương này thật là xởi lởi dễ thương, các bà thương lũ trẻ sinh viên học sinh như con cháu vậy, nên chúng tôi rất phấn khởi đón nhận những sự giúp đỡ chân tình như thế.

Về thuốc men để cấp cho đồng bào trong các khu xóm lao động vào những chuyến đi khám bệnh, thì chúng tôi đi xin từ các dược phòng. Đặc biệt tôi vẫn nhớ Dược sĩ La Thành Nghệ có tiệm thuốc khá lớn tại đường Tự Do Saigon, thì ông rất rộng rãi cấp phát cho chúng tôi số thuốc thông dụng cần thiết. Và đôi khi ông còn cho thêm ít tiền nưã.

Đại khái ban đầu thì với quy mô nhỏ, chúng tôi chỉ làm một số dự án khiêm tốn mà thôi. Sau này, với Chương trình Phát triển Cộng đồng tại các Quận 6,7,8 Saigon kê từ năm 1965 trở đi, thì chúng tôi phải vận dụng tôí đa các mối giao tế quen biết (connections) trong các cơ quan chính quyền, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, các tổ chức nhân đạo từ thiện ngoại quốc như CARE, CRS (Catholic Relief Service), ACS (Asian Christian Service), VNCS (Viet nam Christian Service) IVS (International Voluntary Service) v.v…, thì mới có thể kiếm được cho đủ số phương tiện cần thiết cho các hoạt động khá là phong phú đa dạng trong khuôn khổ cuả chương trính phát triển rộng lớn này.

Chương trình Quận 8 khá là quy mô. Nhờ có anh kỹ sư Võ Long Triều liên hệ vơí Tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó làm Thủ Tướng Chính phủ mà anh chị em chúng tôi được cấp một ngân khỏan 10 triệu đồng để làm quỹ điều hành sơ khởi. Còn vật liệu xây dựng như ciment, sắt và tôle, thì do USAID cung cấp khá đầy đủ. Sau này vào năm 1966-69, thì được cấp thêm 20 triệu đồng nưã, ngân khỏan này cũng được trích từ ngân sách quốc gia. Tuy là một chương trình hoạt động tự nguyện, nhưng chúng tôi được Bộ Thanh niện và Toà Đô chánh là hai cơ quan được Tướng Kỳ trao phó trách nhiệm đứng ra bảo trợ, nên được sự yểm trợ và thiện cảm cuả Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Bộ trưởng và cuả Bác sĩ Văn văn Cuả, Đô trưởng Saigon. Ít lâu sau, thì chính kỹ sư Võ Long Triều lại thay thế bác sĩ Hồng để lên làm Bộ trưởng Thanh niên; do vậy mà chương trình quận 8 được yểm trợ mạnh mẽ hơn từ phiá Bộ Thanh niên.

Nhưng tiếc thay, thời gian này lại quá ngắn, vì kỹ sư Triều chỉ giữ chức vụ Bộ trưởng có chừng 7-8 tháng trong năm 1966 thôi. Và hơn nữa, sau khi Bác sĩ Cuả cũng lại rời chức vụ Đô trưởng, vì bị tai nạn trong vụ trực thăng bắn lầm ở Chợ lớn hồi giữa năm Mậu thân 1968, thì chương trình chúng tôi cũng không còn được sự yểm trợ từ phiá Toà Đô chánh như trước đó. Cũng may, vì đã hoạt động được trên 3 năm kể từ 1965, nên chương trình vẫn giữ được cảm tình và sự yểm trợ cuả nhiều giới chức cấp thấp hơn trong chính quyền, và đặc biệt là cuả cơ quan Usaid. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn có thể tiếp tục công việc phát triển, nhất là phải lo việc tái thiết cho khoảng 8000 căn nhà bị tàn phá dịp Tết Mậu thân 1968. Cho đến năm 1971, thì chúng tôi được lệnh phải chấm dứt hoạt động. Các chi tiết về mối liên hệ cuả chương trình quận 6,7,8 Saigon, kể từ 1965 đến 1971, với chính quyền Việt nam Cộng hoà, cũng như với Usaid và các cơ quan từ thiện xã hội ngoại quốc khác nưã…, thì tôi xin sẽ được trình bày đầy đủ hơn trong một dịp khác. Vì lý do bài này chỉ tập chú vào các chuyện vận đông xin phương tiện vật chất cho các dự án hoạt động xã hội nhân đạo mà thôi.

Sau cái vụ chương trình quận 8 này, thì chúng tôi vẫn còn nhiều sinh hoạt xã hôị nho nhỏ khác, kể cả sau năm 1975 dưới chế độ cộng sản. Nói chung, thì lúc nào trong xã hội cũng có nhu cầu tương trợ những bà con nạn nhân cuả thiên tai bão lụt, hoả hoạn hay bệnh tật nghèo túng, v.v…Và chúng tôi ráng cố gắng thể hiện tình liên đới xã hội qua những việc làm cụ thể, thiết thực nhằm đáp ứng kịp thời, tại chỗ cho những người đang bị lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo, bi đát.

Đáng ghi nhớ nhất là chuyện giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc ở miền Trung sau vụ Muà Hè Đỏ Lửa năm 1972. Lúc đó thì tôi đang làm việc cho Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (World Council of Churches = WCC), nên đã vận động xin được tổ chức này yểm trợ một ngân khoản khá lớn, lên tới cả triệu dollar để dành cho công cuộc cưú trợ này.WCC giao cho Cơ quan Xã hội Tin lành Á châu(ACS) quản trị ngân sách này.


Có thể nói từ 1965 tới 1975, thì qua chương trình phát triển quận 6,7,8 Saigon và qua WCC, tôi đã được chứng kiến và dự phần vào việc “đi vận động vật liệu, tiền bạc” cho nhiều dự án cứu trợ, tái thiết cũng như về xã hội giáo dục…, tại các điạ phương gặp tai nạn do chiến tranh trực tiếp hay gián tiếp gây ra. Nói chung, thì mấy chương trình có quy mô lớn như thế đã gặp nhiều thuận lợi khi chúng tôi đi vận động xin ngân khoản hay vật liệu cho công tác xây dựng hay cứu trợ nhân đạo. Do vậy mà gặp vui nhiều hơn là buồn. Có nhiều cái vui ngộ nghĩnh, cụ thể như chuyện chúng tôi xin được cơ quan CARE giúp cho các ngư phủ đánh cá ở mạn Bình Đông Rạch Cát mỗi gia đình một máy đuôi tôm, vì ghe cuả họ bị bắn chìm dịp Tết Mậu Thân, làm mất cả ghe cả máy nổ. Sau một thời gian, thì chúng tôi được bà con ngư phủ đem cho hai con cá khá lớn, mỗi con dễ đến 2-3 kilô. Họ nói là dành cho chúng tôi một con, còn con kia thì nhờ chuyển đến biếu cho ông Giám đốc cơ quan CARE. Và tôi có phone cho ông Giám đốc về việc này, nhưng ông lại tặng lại cho chúng tôi. Thành ra chỉ có một việc làm môi giới xin máy đuôi tôm, mà chúng tôi được bà con cho đến 2 con cá thật là tươi và lớn nưã. Dịp đó anh chị em chúng tôi được ăn một bưã cơm với mấy món cá thật là hậu hĩnh.

Sau năm 1975, thì phải đợi mãi đến năm 1986 trở đi với chủ trương “Đổi Mới”, một số sinh hoạt từ thiện xã hội với quy mô nho nhỏ cuả tư nhân mới có thể tái xuất hiện được. Điển hình là chuyện đoàn y tế gồm các bác sĩ, nha sĩ và y tá tự nguyện từ Saigon lên tận Phước Long, gấn chân núi Bà rá, để chăm sóc sức khỏe cho anh chị em tại trại cai nghiền ma tuý Phú văn. Ngoài việc khám bệnh, chúng tôi còn cấp phát thuốc men, thực phẩm và quần aó cho các trại viên nữa. Sau này vì đường xá đi lại khó khăn trở ngại, nên đoàn y tế này phải chuyển đến giúp bà con người sắc tộc nghèo khó tại khu vực Túc Trưng Định Quán La Ngà trên quốc lộ 20 từ Dầu Giây đi Đà lạt.

Rất nhiều quý vị hảo tâm đã cho tiền bạc, thuốc men và quần áo cho chúng tôi đi làm việc từ thiện nhân đạo này. Cụ thể là Linh mục Nguyễn Quang Lãm tức nhà báo Thiên Hổ chủ bút báo Xây Dựng trước kia, Ni sư Như Châu tại Chuà Huê Lâm khu bình bung Cây Gõ Chợ lớn, Cụ Chánh Năm nguyên Phó Tỉnh Trưởng Bùi chu, lúc vaò Nam thì ở khu Lăng Cha Cả Tân bình, Nữ Tu Quỳnh Dao thuộc Dòng Phan Sinh, Linh mục Thomas Trần văn Dụ, gốc ở Huế, v.v… Chúng tôi chỉ vận động kín đáo trong vòng thân mật quen biết thôi, chứ không thể công khai mở rộng ra với công chúng như hồi trước năm 1975. Đặc biệt vào năm 1988 trở đi, với việc các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu tới Việt nam để tìm cơ hội buôn bán làm ăn, thì chúng tôi cũng được một vài người ngoại quốc giúp đỡ, cụ thể như ông Clive Fairfield từ Singapore, ông Mike Morrow từ Hongkong đều có một vài lần hỗ trợ chút ít tiền bạc, để mua thuốc men cho đoàn y tế có phương tiện chăm sóc cho bà con người sắc tộc ở khu vực nói trên.

Tôi cũng phải kể thêm về nhừng chuyện buồn nữa trong việc đi ngửa tay xin bá tánh giúp đỡ công tác xã hội này, thì mới mô tả đày đủ các mặt tích cực và tiêu cực cuả sự việc.Cụ thể như khi gặp trường hợp người không thông cảm với chuyện xã hội mình làm, hoặc gặp người hay đa nghi cứ sợ bị mình đi lưà bịp thế này thế nọ, thì dù có lựa lời van xin nhỏ nhẹ, khiêm tốn đến đâu đi nữa, cũng vô ích mà thôi. Mà có khi lại còn bị ‘đuổi khéo”, bị nói cho đến tẽn tò ngượng ngập nưã. Nhưng mà, biết làm sao khác được? Chúng tôi quan niệm rằng mình cứ làm việc đàng hoàng, đứng đắn ngay thẳng, thì cũng không nên chấp nhất cái chuyện “lẻ tẻ vặt vãnh” như thế. Mình ra công sức, thì cũng cần người có cuả phụ giúp tiếp tế thêm về phương tiện tài chánh, vật liệu cho nữa, như vậy mới có thể hoàn thành công việc tốt đẹp được.

Vì đây là việc chung có ích lợi cho đa số bà con kém may mắn, thì cũng chẳng nên quản ngại có sự hiểu lầm hay thiếu thông cảm cuả một số ít người khó tính như thế. Bọn tôi hay bảo nhau là phải áp dụng cái chiến thuật “phải hạ mình xuống để chinh phục được thiện cảm cuả người khác”, như đề tựa cuả cuốn sách tiếng Anh mà các học sinh bậc trung học chúng tôi được học ngày trước, đó là: “She stoops to conquer” (Nàng cúi mình xuống để chinh phục). Làm công tác xã hội, thì phải nhẫn nhục, chiụ đựng những lời gièm pha, hạch sách, kể cả phỉ báng cuả công chúng; đó là điều không thể né tránh hết thảy được.

Sau nhiều năm miệt mài lăn lộn với đủ các thứ chuyện “ăn cơm nhà mà đi vác ngà voi” như thế đó, thì tôi vẫn thấy là về căn bản chúng tôi nhận được sự thông cảm khích lệ cuả rất nhiều giới trong xã hội đối với loại công tác xây dựng cụ thể, thiết thực để giúp đồng bào cuả mình. So ra, thì rõ rệt là dù phải vất vả, nhẫn nhục mà ngưả tay xin sự bố thí cuả bá tánh, chúng tôi vẫn gặp được nhiều thuận lợi, vui mừng phấn khởi hơn là sư buồn phiền vì bị khinh chê, rẻ rúng cuả một thiểu số người không thông cảm, vẫn còn nghi hoặc đối với mình. Vì thế cho nên chúng tôi vẫn giữ được tinh thần lạc quan, phấn khởi để mà tiếp tục con đường phục vụ nhân quần xã hội cuả mình, bất kể mọi chông gai trở ngại.

Bài viết đến đây kể đã khá dài rồi, mà vẫn còn nhiều chi tiết cụ thể, ngộ nghĩnh khác nữa cần phải ghi ra. Nhất là về giai đọan gần đây ở trên đất Mỹ, nơi tôi đến định cư từ năm 1996 cho đến hiện nay. Nhưng người viết thấy cũng nên hạn chế bớt lại, để xin có dịp trình bày thêm cho đầy đủ hơn vào một dịp khác nữa vậy./

California, Tiết Đông Chí năm Mậu Tý 2008

Đoàn Thanh Liêm

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.