Hôm nay,  

Ngồi Buồn Nói Chuyện… AK

28/02/201400:00:00(Xem: 5929)
Đọc tuần báo Time số cuối năm, tôi khá ấn tượng về lời ai điếu người cha đẻ ra khẩu súng trường AK-47 của Liên xô, một vũ khí cá nhân có độ sát thương cao và đã xuất xưởng trên 100 triệu khẩu kể từ ngày có bằng sáng chế nhãn hiệu này mang chính tên ông.

Bản tin đăng trên chuyên mục dành cho các danh nhân thế giới đủ mọi lãnh vực vừa qua đời mà thân thế và sự nghiệp của họ có ảnh hưởng cả tốt (lẫn xấu) đến số phận nhiều người thậm chí chuyển đổi cả thế giới. Mới đây nhất, Võ Nguyên Giáp của Việt nam được vinh danh như ‘viên tướng chưa hề chiến bại’ nhưng cũng chỉ chiếm một khung nhỏ trong toàn chuyên mục chỉ có một trang.

Ấy vậy mà người cha đẻ AK-47 lại được trang trọng nhắc đến vừa có hình ảnh đính kèm vừa có phần tiểu sử ‘hoành tráng’ chiếm cả nửa trang, được ghi danh như ‘Người của chiến trận’ (Man of war) dù ông chỉ là một thượng tướng của Liên xô không có công trạng gì lớn, nhưng đưa đẩy thế nào lại tạo kiểu được khẩu súng trường tự động độc đáo mà trong cuốn hồi ký mới đây nhất đã lấy tựa đề ‘AK-47 làm chuyển đổi thế giới’, cuốn sách được kể như best-seller trên thị trường sách. Tôi đang tìm đọc cuốn này.

Vậy cha đẻ AK-47, ông là ai? Cứ theo dòng tiểu sử thì Mikhail Kalashnikov là một chiến sĩ tăng (thiết giáp) của Hồng quân Liên xô thời Đại chiến thứ hai, thấy đồng đội của mình là những người lính bộ binh được trang bị bởi vũ khí cá nhân quá nghèo nàn về hỏa lực, khiến cuộc chiến tranh vệ quốc tổn thất gần 20 triệu, nên nhờ có khiếu về cơ khí và tham khảo thêm sách vở, ông mày mò thế nào mà tạo ra được khẩu súng trường vừa ngắn vừa nhẹ có băng đạn cong với độ sát thương cao, vừa dễ xử dụng và bảo toàn trong chiến trận. Với tâm niệm khi chế tạo loại vũ khí sát thương này, ông chỉ muốn đồng đội ông xử dụng nó như một khí tài nhằm ‘bảo vệ đất mẹ’, nhưng không ngờ hiệu quả của nó đã nhanh chóng trở thành loại vũ khí cá nhân được phổ biến nhất trong các cuộc chiến tranh hậu bán thế kỷ 20!

Ngày nay AK-47 không còn là danh xưng của một khẩu súng, mà trở thành công cụ đồng hành với các phong trào tự phát của dân quân, của các cuộc nổi dậy, từ châu Á, châu Phi, trải dài qua châu Mỹ La-tinh, từ Việt nam đến Nicaragua, từ rừng già Mã lai đến sa mạc Trung Đông, AK-47 đã dính liền với các cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh du kích, chiến tranh phá hoại, chiến tranh khủng bố, chưa kể khởi đầu nó lại được trang bị cho lính Nga trong cuộc đàn áp cuộc nổi dậy tại Hungary năm 1956, rồi binh sĩ của lực lượng khối Warsaw của Đông Âu, rồi gậy ông đập lưng ông, lại được chính nhóm majahadin của A-phú-hãn xử dụng nó để chống sự có mặt của Nga trên đất nước này buộc Liên xô phải rút quân hồi thập niên ’80.

Nhưng theo sự đánh giá của các nhà vũ khí học thì khi AK-47 rơi vào tay các lực lượng vũ trang của Cộng sản Bắc Việt mà người ta quen gọi là Việt Cộng trong chiến tranh Việt nam khởi đi từ giữa thập niên ‘60 thì AK trở thành vũ khí cá nhân được ‘ưa chuộng’ nhất. Chẳng vậy mà thủ tướng của Do Thái Sharon trong suốt 60 năm lúc nào cũng có khẩu AK và cái xẻng cá nhân trong thùng xe, ông còn trân trọng gọi nguyên chữ ‘khẩu Kalashnikov của tôi’. Mandela người yêu hoà bình và công lý khi phải quay sang chiến tranh phá hoại đã phải nhờ các đồng chí cộng sản bài học quân sự đầu đời, cách xử dụng…AK. Từ khi có chiến tranh khủng bố thì hình ảnh được tung trên mạng là ông trùm bin Laden đang bắn AK ở một xạ trường huấn luyện cho các đàn em và khi nơi ở bị lính Mỹ đột nhập, phản ứng đầu tiên của bà vợ là với tay lấy khẩu AK treo đầu giường thảy cho ông, nhưng số phần đứt đoạn nên ông trùm không xử dụng kịp.


Kể từ khi sáng chế khoảng 1947, nhiều giai thoại và huyền thoại được kể về khẩu súng này. Không nói đâu xa, chỉ ở quê mình, AK một thời đồng nghĩa với Việt Cộng. Các lính miền Nam khi báo cáo tổn thất hay dùng ‘phía ta’ và ‘phía AK’. Cũng chẳng dấu diếm lính Cộng hòa có phần ‘ghen tị’ khi bộ đội miền Bắc được trang bị vũ khí cá nhân vừa tiện dụng lại tối tân từ khối Liên xô, trong khi Mỹ chỉ chiụ trang bị cho mình khẩu M1 vừa dài hỏa lực lại yếu hơn, cho nên các sử gia sau này khi đánh giá cuộc chiến đã nhận xét về mặt hỏa lực không phải B 52 mà thực sự ‘khẩu AK làm chuyển đổi chiến tranh Việt nam’!

Sau chiến tranh, chúng tôi nhớ một giai thoại vui hồi đi tù cải tạo tai miền Bắc. Trong một đêm thanh vắng tại một trại giam vùng Trung du Vĩnh Phú, có tiếng kêu thất thanh từ một tù nhân, ‘cán bộ ơi!cứu tôi với!’. Hỏi ra mới biết anh ta đau sạn thận. Viên cán bộ đi tuần cũng chẳng biết làm gì hơn. Cấp cứu chưa thấy, rên rỉ một hồi, không chịu nổi, anh ta đánh bạo ‘xin cán bộ cho tôi một viên…AK’. Tất nhiên chuyện nghe như đùa nhưng có thật. Nay sang đến Mỹ, cựu đại úy Dũng vẫn được anh em gọi theo cái tên ‘Dũng AK’ sau lần sống sót nhờ chữa mẹo mà đái ra được một viên sỏi thận.

Trở lại chuyện cha đẻ AK, bản thân Mikhail Kalashnikov vốn là một chiến sĩ thuần thành, về hưu với quân hàm thượng tướng và danh hiệu Anh hùng lao động ở tuổi 70, Trùng hợp với thời điểm Liên xô tan rã, từ một người vô thần, ông quay về với những giá trị tinh thần và tâm linh của một người nông dân gốc Nga (cha ông cũng là một nông dân và tín đồ ngoan đạo của đạo Chính thống Orthodox Nga). Ông đâm ra trăn trở về việc sáng chế ra khẩu AK mà lúc đầu chỉ nhằm mục đích tự vệ, nay trở thành vũ khí tấn công và hệ lụy là nhiều số phận đã phải tử vong trong nhiều cuộc chiến tranh dù các phe hữu quan có nhân danh là gì đi nữa.

Trong một cuộc phỏng vấn, ông không hài lòng với hình ảnh bin Laden khi trùm khủng bố cầm khẩu AK được chiếu đi chiếu lại trên màn hình thế giới. Ông rất ghét những kẻ dùng AK để trang bị cho những đạo quân dấu mặt, cho mục tiêu phi đạo đức, cho thú chơi vũ khí của những kẻ vô trách nhiệm, cho các kẻ tâm thần, vô cảm đã xả AK vào các trường học, các trạm xe bus, các rạp hát, các nhà thờ…mà sau khi ông mất, bài aì điếu trên tờ Time phải than thở ‘ngày nay không nơi nào trên thế giới nằm ngoài tầm họng súng của Kalishnakov’!

Giai thoại mới nhất qua sự kiện thời sự ở Ukraina, tên ông lại được nhắc đến từ thủ tướng Nga, phụ tá cho Putin khi ông này hậm hực gán cho lãnh đạo phe nổi dậy được hậu thuẫn bởi ‘bọn người mang súng Kalishnakov đeo mặt nạ đen’ nhằm ám chỉ lực lượng đứng đàng sau phe thân Tây phương.

Mấy năm trước ngày ông mất, theo thói quen của người già thường lo cho ‘phần hồn’, ông có gởi cho Giáo chủ đạo Chính thống Nga một lá thư, nội dung có chỗ ông cảm thấy có trách nhiệm và là người ‘có tội’ khi sáng chế ra khẩu AK giết đi biết bao sinh mạng, vậy nếu chết đi ông có được lên thiên đàng không? Trước câu hỏi của một con chiên ngoan đạo, vị Giáo chủ không trực tiếp giải đáp (vì chuyện thiên đàng là chuyện của Chúa chẳng phải do người), chỉ ca ngợi ông có thiện ý khi làm việc này vì tinh thần yêu nước nhằm bảo vệ Tổ Quốc.

Phước thay là ông vẫn ngủ ngon, lạc quan, sống lâu, chết êm và thanh thản xa trần gian một đêm trước ngày Chúa giáng sinh ở tuổi 94.

ĐXT

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.