Hôm nay,  

Ngồi Buồn Nói Chuyện… AK

28/02/201400:00:00(Xem: 6137)
Đọc tuần báo Time số cuối năm, tôi khá ấn tượng về lời ai điếu người cha đẻ ra khẩu súng trường AK-47 của Liên xô, một vũ khí cá nhân có độ sát thương cao và đã xuất xưởng trên 100 triệu khẩu kể từ ngày có bằng sáng chế nhãn hiệu này mang chính tên ông.

Bản tin đăng trên chuyên mục dành cho các danh nhân thế giới đủ mọi lãnh vực vừa qua đời mà thân thế và sự nghiệp của họ có ảnh hưởng cả tốt (lẫn xấu) đến số phận nhiều người thậm chí chuyển đổi cả thế giới. Mới đây nhất, Võ Nguyên Giáp của Việt nam được vinh danh như ‘viên tướng chưa hề chiến bại’ nhưng cũng chỉ chiếm một khung nhỏ trong toàn chuyên mục chỉ có một trang.

Ấy vậy mà người cha đẻ AK-47 lại được trang trọng nhắc đến vừa có hình ảnh đính kèm vừa có phần tiểu sử ‘hoành tráng’ chiếm cả nửa trang, được ghi danh như ‘Người của chiến trận’ (Man of war) dù ông chỉ là một thượng tướng của Liên xô không có công trạng gì lớn, nhưng đưa đẩy thế nào lại tạo kiểu được khẩu súng trường tự động độc đáo mà trong cuốn hồi ký mới đây nhất đã lấy tựa đề ‘AK-47 làm chuyển đổi thế giới’, cuốn sách được kể như best-seller trên thị trường sách. Tôi đang tìm đọc cuốn này.

Vậy cha đẻ AK-47, ông là ai? Cứ theo dòng tiểu sử thì Mikhail Kalashnikov là một chiến sĩ tăng (thiết giáp) của Hồng quân Liên xô thời Đại chiến thứ hai, thấy đồng đội của mình là những người lính bộ binh được trang bị bởi vũ khí cá nhân quá nghèo nàn về hỏa lực, khiến cuộc chiến tranh vệ quốc tổn thất gần 20 triệu, nên nhờ có khiếu về cơ khí và tham khảo thêm sách vở, ông mày mò thế nào mà tạo ra được khẩu súng trường vừa ngắn vừa nhẹ có băng đạn cong với độ sát thương cao, vừa dễ xử dụng và bảo toàn trong chiến trận. Với tâm niệm khi chế tạo loại vũ khí sát thương này, ông chỉ muốn đồng đội ông xử dụng nó như một khí tài nhằm ‘bảo vệ đất mẹ’, nhưng không ngờ hiệu quả của nó đã nhanh chóng trở thành loại vũ khí cá nhân được phổ biến nhất trong các cuộc chiến tranh hậu bán thế kỷ 20!

Ngày nay AK-47 không còn là danh xưng của một khẩu súng, mà trở thành công cụ đồng hành với các phong trào tự phát của dân quân, của các cuộc nổi dậy, từ châu Á, châu Phi, trải dài qua châu Mỹ La-tinh, từ Việt nam đến Nicaragua, từ rừng già Mã lai đến sa mạc Trung Đông, AK-47 đã dính liền với các cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh du kích, chiến tranh phá hoại, chiến tranh khủng bố, chưa kể khởi đầu nó lại được trang bị cho lính Nga trong cuộc đàn áp cuộc nổi dậy tại Hungary năm 1956, rồi binh sĩ của lực lượng khối Warsaw của Đông Âu, rồi gậy ông đập lưng ông, lại được chính nhóm majahadin của A-phú-hãn xử dụng nó để chống sự có mặt của Nga trên đất nước này buộc Liên xô phải rút quân hồi thập niên ’80.

Nhưng theo sự đánh giá của các nhà vũ khí học thì khi AK-47 rơi vào tay các lực lượng vũ trang của Cộng sản Bắc Việt mà người ta quen gọi là Việt Cộng trong chiến tranh Việt nam khởi đi từ giữa thập niên ‘60 thì AK trở thành vũ khí cá nhân được ‘ưa chuộng’ nhất. Chẳng vậy mà thủ tướng của Do Thái Sharon trong suốt 60 năm lúc nào cũng có khẩu AK và cái xẻng cá nhân trong thùng xe, ông còn trân trọng gọi nguyên chữ ‘khẩu Kalashnikov của tôi’. Mandela người yêu hoà bình và công lý khi phải quay sang chiến tranh phá hoại đã phải nhờ các đồng chí cộng sản bài học quân sự đầu đời, cách xử dụng…AK. Từ khi có chiến tranh khủng bố thì hình ảnh được tung trên mạng là ông trùm bin Laden đang bắn AK ở một xạ trường huấn luyện cho các đàn em và khi nơi ở bị lính Mỹ đột nhập, phản ứng đầu tiên của bà vợ là với tay lấy khẩu AK treo đầu giường thảy cho ông, nhưng số phần đứt đoạn nên ông trùm không xử dụng kịp.


Kể từ khi sáng chế khoảng 1947, nhiều giai thoại và huyền thoại được kể về khẩu súng này. Không nói đâu xa, chỉ ở quê mình, AK một thời đồng nghĩa với Việt Cộng. Các lính miền Nam khi báo cáo tổn thất hay dùng ‘phía ta’ và ‘phía AK’. Cũng chẳng dấu diếm lính Cộng hòa có phần ‘ghen tị’ khi bộ đội miền Bắc được trang bị vũ khí cá nhân vừa tiện dụng lại tối tân từ khối Liên xô, trong khi Mỹ chỉ chiụ trang bị cho mình khẩu M1 vừa dài hỏa lực lại yếu hơn, cho nên các sử gia sau này khi đánh giá cuộc chiến đã nhận xét về mặt hỏa lực không phải B 52 mà thực sự ‘khẩu AK làm chuyển đổi chiến tranh Việt nam’!

Sau chiến tranh, chúng tôi nhớ một giai thoại vui hồi đi tù cải tạo tai miền Bắc. Trong một đêm thanh vắng tại một trại giam vùng Trung du Vĩnh Phú, có tiếng kêu thất thanh từ một tù nhân, ‘cán bộ ơi!cứu tôi với!’. Hỏi ra mới biết anh ta đau sạn thận. Viên cán bộ đi tuần cũng chẳng biết làm gì hơn. Cấp cứu chưa thấy, rên rỉ một hồi, không chịu nổi, anh ta đánh bạo ‘xin cán bộ cho tôi một viên…AK’. Tất nhiên chuyện nghe như đùa nhưng có thật. Nay sang đến Mỹ, cựu đại úy Dũng vẫn được anh em gọi theo cái tên ‘Dũng AK’ sau lần sống sót nhờ chữa mẹo mà đái ra được một viên sỏi thận.

Trở lại chuyện cha đẻ AK, bản thân Mikhail Kalashnikov vốn là một chiến sĩ thuần thành, về hưu với quân hàm thượng tướng và danh hiệu Anh hùng lao động ở tuổi 70, Trùng hợp với thời điểm Liên xô tan rã, từ một người vô thần, ông quay về với những giá trị tinh thần và tâm linh của một người nông dân gốc Nga (cha ông cũng là một nông dân và tín đồ ngoan đạo của đạo Chính thống Orthodox Nga). Ông đâm ra trăn trở về việc sáng chế ra khẩu AK mà lúc đầu chỉ nhằm mục đích tự vệ, nay trở thành vũ khí tấn công và hệ lụy là nhiều số phận đã phải tử vong trong nhiều cuộc chiến tranh dù các phe hữu quan có nhân danh là gì đi nữa.

Trong một cuộc phỏng vấn, ông không hài lòng với hình ảnh bin Laden khi trùm khủng bố cầm khẩu AK được chiếu đi chiếu lại trên màn hình thế giới. Ông rất ghét những kẻ dùng AK để trang bị cho những đạo quân dấu mặt, cho mục tiêu phi đạo đức, cho thú chơi vũ khí của những kẻ vô trách nhiệm, cho các kẻ tâm thần, vô cảm đã xả AK vào các trường học, các trạm xe bus, các rạp hát, các nhà thờ…mà sau khi ông mất, bài aì điếu trên tờ Time phải than thở ‘ngày nay không nơi nào trên thế giới nằm ngoài tầm họng súng của Kalishnakov’!

Giai thoại mới nhất qua sự kiện thời sự ở Ukraina, tên ông lại được nhắc đến từ thủ tướng Nga, phụ tá cho Putin khi ông này hậm hực gán cho lãnh đạo phe nổi dậy được hậu thuẫn bởi ‘bọn người mang súng Kalishnakov đeo mặt nạ đen’ nhằm ám chỉ lực lượng đứng đàng sau phe thân Tây phương.

Mấy năm trước ngày ông mất, theo thói quen của người già thường lo cho ‘phần hồn’, ông có gởi cho Giáo chủ đạo Chính thống Nga một lá thư, nội dung có chỗ ông cảm thấy có trách nhiệm và là người ‘có tội’ khi sáng chế ra khẩu AK giết đi biết bao sinh mạng, vậy nếu chết đi ông có được lên thiên đàng không? Trước câu hỏi của một con chiên ngoan đạo, vị Giáo chủ không trực tiếp giải đáp (vì chuyện thiên đàng là chuyện của Chúa chẳng phải do người), chỉ ca ngợi ông có thiện ý khi làm việc này vì tinh thần yêu nước nhằm bảo vệ Tổ Quốc.

Phước thay là ông vẫn ngủ ngon, lạc quan, sống lâu, chết êm và thanh thản xa trần gian một đêm trước ngày Chúa giáng sinh ở tuổi 94.

ĐXT

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.