Hôm nay,  

Gặp Gỡ Những Bạn Người Khmer Nạn Nhân Cộng Sản

29/04/201400:00:00(Xem: 5162)

Sáng Chủ nhật 27 tháng Tư 2014, lúc đang đi lạc đường ở khu vực phía Nam thành phố Philadelphia, thì tôi gặp một anh bạn người gốc Á châu đang lo chăm sóc mảnh vườn ở trước nhà. Tôi bèn lên tiếng nhờ anh chỉ cho lối đi đến nhà thờ Tin Lành của người Việt trên đường Woodland và được anh đích thân lấy xe chở đến đúng địa điểm ngôi nhà thờ đó mà cách xa nhà anh đến cả một cây số. Trên đường đi, chúng tôi trao đổi chuyện trò với nhau và anh cho tôi biết anh là một người tỵ nạn gốc ở Cambodia đến Mỹ đã trên 30 năm nay.

Anh bạn nói rõ thêm: “Vào năm 1975, lúc quân Khmer Đỏ tiến vào thủ đô Nam Vang, thì họ đã giết ngay cả cha mẹ và người anh trai của anh. Lúc đó ở vào tuổi 14, anh đã phải theo một gia đình bà con chạy trốn về miền quê. Và mãi đến năm 1979, khi chế độ Khmer Đỏ sụp đổ thì anh mới tìm cách thóat khỏi xứ sở và đi thóat được ra nước ngòai. Và rồi cuối cùng là đến định cư được tại thành phố Philadelphia này. Anh còn cho biết là kể từ ngày đó, chưa bao giờ anh trở về thăm lại Cambodia lần nào cả…”

Câu chuyện của anh bạn này làm cho tôi nhớ lại trường hợp của một anh bạn khác cùng ở tù chung với tôi tại trại Z30D ở Hàm Tân Phan Thiết hồi những năm 1992 – 94. Đó là anh Kim Hên người Khmer sinh sống tại Trà Vinh. Anh bị án tù chung thân sau vụ nổi dậy của người Khmer với cuộc xô xát đẫm máu với công an bộ đội cộng sản Việt nam ở địa phương vào năm 1977. Kim Hên người có dáng điệu thanh nhã như là một thầy giáo, nước da trắng trẻo, tính tình trầm lặng. Hồi ở trong trại tù vào năm 1993 anh vào độ tuổi 37 – 38, là người tù có nhân cách đàng hòang chũng chạc, được nhiều bạn tù quý trọng mà cả đến cán bộ trong trại cũng tỏ ra vị nể.

Sau khi được “bể án” đổi từ án chung thân xuống mức “án 20 năm”, thì vào năm 1994 Kim Hên được trả tự do – thành ra anh chỉ phải ở trong tù tất cả có 17 năm. Trước lúc xuất trại, Kim Hên tìm đến gặp tôi và hai chúng tôi có dịp chuyện trò tâm sự thật chân tình tâm đắc. Năm 2014 này, tức là đã 20 năm Kim Hên và tôi đã xa cách nhau và từ đó vì lý do tôi phải rời khỏi Việt nam, nên chúng tôi cũng không hề nhận được tin tức nào của nhau. Nay, tôi xin thuật lại một số điều anh bạn Kim Hên đã trao đổi với tôi vào năm 1994, nhân tiện cũng xin ghi thêm một số chuyện về các nạn nhân của Khmer Đỏ mà tôi có dịp gặp trên đất Mỹ.

I – Câu chuyện của Kim Hên người Khmer Krom ở Trà Vinh.

Để phân biệt với người Khmer ở bên chính quốc, thì người Khmer ở Cambodia gọi người Khmer sinh sống tại đồng bằng sông Mekong ở Việt nam là Khmer Krom cũng có nghĩa như ngày xưa nguời Việt mình gọi họ là người “Thủy Chân Lạp” – nghĩa là ở miệt có nhiều sông nước.

Về chuyện đời tư gia đình, Kim Hên cho tôi biết là trước khi bị bắt anh đã có người yêu và dự tính hai người sẽ đi tới hôn nhân để cùng chung sống với cảnh “ăn đời ở kiếp với nhau”. Nhưng sau khi bị bắt giam với án tù chung thân, thì anh đã nhắn tin cho người yêu biết đại khái như sau: “Xin đừng có đợi người tù với án chung thân này nữa. Mà hãy tìm cách lập gia đình với một người khác đi”. Và quả thật, ít năm sau, thì anh được tin là cô bạn ấy đã đi lấy chồng – điều này khiến anh an tâm và cam phận với cuộc sống cô lập đơn chiếc trong trại tù.

Sau khi chuyện trò tâm sự thân tình như thế, thì Kim Hên hỏi tôi: “Cháu sắp được trả tự do để về quê sinh sống với bà con trong gia đình thân tộc, vậy chú có lời khuyên nào để giúp cho cháu không?” Tôi bèn trả lời cho anh đại lược như sau: “Về chuyện chính trị, thì tôi chưa được hiểu nhiều về phong trào tranh đấu của người Khmer Krom của em, do đó tôi chưa thể có lời khuyên nào về mặt này cho em được. Vả nữa, tôi còn phải ở tù nhiều năm nữa, vì tôi mới ở tù có 4 năm, trong khi án tù của tôi thì đến 12 năm cơ. Chừng nào tôi được ra tù, chúng mình sẽ tìm gặp nhau để bàn thảo về chuyện này nha…”

Rồi sau đó, tôi nói tiếp: “Nhưng vì là người đã lớn ở vào tuổi 60, tôi có thể thành thật khuyên em như thế này. Bây giờ được tự do, em phải bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới cho riêng bản thân mình. Nếu em không vào chùa đi tu, thì em sẽ phải có gia đình để có đôi vợ chồng chung sống với lũ con – bình thường như bao nhiêu bà con khác. Và để chuẩn bị chu đáo cho một cuộc sống gia đình êm ấm hạnh phúc, thì điều quan trọng nhất là em phải có một nghề nghiệp vững chắc để bảo đảm cung ứng được những nhu cầu thiết yếu của vợ con thân thiết của mình. Mà cho đến nay, em đã hy sinh quá nhiều cho tập thể cộng đồng người Khmer Krom của em ở Trà Vinh – đến nỗi không hề nghĩ đến tương lai cho bản thân mình. Như vậy, thì nay đã gần 40 tuổi rồi, em cần phải tự mình lo lắng cho chính bản thân mình đi chứ - kẻo muộn quá rồi đấy!”


Im lặng một lát, rồi Kim Hên mở lòng tâm sự với tôi, đại để với lời lẽ thật mộc mạc như sau: “ Cháu thật cảm ơn chú vì lời khuyên nhủ thực tế và cụ thể này. Trước đây, cháu cũng đã hỏi mấy bậc đàn anh cũng là tù nhân chính trị như chú, mà hầu hết họ đều rủ rê kêu gọi cháu tham gia tổ chức này, tổ chức nọ cùng với họ. Cháu là người ở mãi đồng quê, miệt ruộng vườn với tòan người nông dân chất phác, vì thế mà cháu đâu có sự hiểu biết gì nhiều về sinh họat chính trị của người Kinh như các chú. Do vậy cháu chưa hề hứa hẹn với ai là mình sẽ tham gia họat động chính trị với một nhóm nào cả. Cháu nhận thấy chú thật là tế nhị, tinh tế khi nói rằng chú không thể có ý kiến gì về chuyện tham gia họat động chính trị sau này của cháu. Mà trái lại, chú chỉ khuyên cháu về chuyện chuẩn bị xây dựng cho gia đình riêng của cháu thôi - y hệt như là một bậc cha bác thường vẫn khuyên nhủ em cháu trong dòng họ vậy…”

Sau bữa đó không bao lâu, thì Kim Hên rời trại Hàm Tân vào giữa năm 1994. Và từ ngày đó, tôi không hề nhận được thông tin nào về anh ấy nữa.

II – Chuyện từ Cộng đồng người Khmer tại Long Beach, California.

Theo một số bà con cho biết, thì phần đông người Khmer tỵ nạn trên đất Mỹ thì đều chọn định cư tại thành phố Long Beach gần kề với Los Angeles thuộc miền Nam California. Vào năm 2002, tôi có dịp được mời tham dự một Lễ Tết của cộng đồng người Khmer ở Long Beach. Đây là một lễ hội truyền thống thường được tổ chức vào tháng Tư mỗi năm, trong đó có mục đặc biệt là vảy nước trên người các tham dự viên – tương tự như ở Thái Lan. Năm đó, Lễ Hội diễn ra trong một công viên khá rộng rãi ở Long Beach và dịp này tôi vừa được chuyện trò với các thành viên của Cơ quan Xã hội nhằm phục vụ riêng cho người Khmer ở địa phương, vừa được tham dự một số tiết mục thật đáng chú ý trong ngày. Xin ghi lại vài điều như sau:

1 – Lễ Cầu siêu Tưởng niệm những bà con bị sát hại dưới thời cai trị của Khmer Đỏ.

Có đến cả chục nhà sư Phật giáo mặc áo vàng và hàng ngàn người Khmer nghiêm chỉnh đứng xung quanh một đống cát khá lớn với chiều cao cỡ 1 mét, chiều dài chừng vài chục mét. Sau lời cầu nguyện của các nhà sư, thì mọi người đốt nhang và lần lượt mang đến cắm trên đống cát tượng trưng cho nấm mộ của các nạn nhân lên đến gần 2 triệu người mà bị tàn sát trong thời gian trên 4 năm dưới chế độ tàn bạo của Khmer Đỏ.

2 – Mọi thành viên trong Trung tâm Xã hội thì đều có thân nhân ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu bị sát hại.

Cô Phượng là một cán sự xã hội người Việt duy nhất làm việc ở cơ sở xã hội này, thì cô cho biết là: “Không một người Khmer nào ở Trung tâm này mà lại không có người thân thiết ruột thịt trong gia đình bị giết hại vào thời kỳ Khmer Đỏ cai trị. Và hiện hầu hết các nhân viên này đều đi bước nữa bằng cách cưới vợ cưới chồng với người cũng đã bị mất người phối ngẫu trong cuộc Đại Khủng Bố đó!”

III – Chúng ta người Khmer cũng như người Việt mà phải đến tỵ nạn trên đất Mỹ này, thì tất cả đều là những nạn nhân của sự tàn bạo do người cộng sản gây ra cả.

Trở lại với câu chuyện trao đổi với anh người Khmer có lòng tốt chở tôi đến nhà thờ Tin lành như đã ghi trên đây, thì anh bị quân Khmer Đỏ sát hại cả cha lẫn mẹ ngay sau khi họ chiếm được thủ đô Phnom Penh vào giữa tháng tư 1975. Khi nghe anh thuật lại như vậy, thì tôi đã trả lới anh rằng: “Cả anh và tôi, chúng ta đều là nạn nhân của cộng sản cả. Cha tôi bị cộng sản bắt giữ vào năm 1948 lúc tôi mới có 14 tuổi (giống như anh vào năm 1975) và gia đình chúng tôi không hề bao giờ được thấy ông cụ kể từ sau ngày bị bắt đi nữa. Có điều là so với anh, thì tôi bớt đau khổ hơn vì mẹ của tôi đã không bị giết như trường hợp của mẹ anh. Nhưng dầu sao, thì anh và tôi cũng đều bị đau khổ vì sự mất mát cha mẹ lúc còn trẻ tuổi như thế…!”

Bữa nay là ngày 28 tháng Tư 2014, tôi xin ghi lại câu chuyện trên đây nhằm đóng góp vào dịp Tưởng niệm hàng mấy triệu bà con người Việt cũng như người Khmer mà bị sát hại bởi bàn tay tàn bạo sắt máu của người cộng sản suốt trong mấy chục năm qua. Với lời nguyện ước rằng con cháu chúng ta sẽ không bao giờ phải trải qua những sự đau đớn thống khổ tột độ đến như vậy nữa./

Tại thành phố New York, ngày 28 tháng Tư 2014

Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.