Hôm nay,  

Trở Về Mái Nhà Xưa Nơi Thư Viện Quốc Hội Mỹ

5/20/201400:00:00(View: 4527)

Năm 1960, hồi làm chuyên viên nghiên cứu luật pháp tại văn phòng Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ở Saigon, thì tôi được cử đi học tập tu nghiệp và quan sát tại những cơ sở thuộc Quốc Hội Mỹ ở thủ đô Washington DC. Tại đây, tôi được hướng dẫn đến học tập trong thời gian dài với cơ sở gọi là “Legislative Reference Service” (LRS = Sở Tài Liệu Lập Pháp) nằm trong tòa nhà được gọi là Jefferson Building của Thư Viện Quốc Hội Mỹ (Library of Congress = LOC).

Vào năm 1960, dưới trào Tổng thống Eisenhower, thủ đô nước Mỹ thật là thanh bình êm ả, đường phố sạch sẽ xinh đẹp tươi vui hết chỗ nói. Và riêng đối với một thanh niên đã từng phải trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc nơi miền quê đất Bắc hồi đầu những năm 1950 - thì Washington có thể được coi như là một thứ bồng lai tiên cảnh, một thiên đường dưới thế gian này vậy.

Nhà tôi ở trọ nằm trong khu Tây Bắc gần với Tòa Bạch Ốc, nên ngày ngày phải đi xe bus để đến LOC tọa lạc tại phía Đông Nam của trụ sở Quốc Hội chiếm một khỏang diện tích khá rộng trong một khu đồi gọi là Capitol Hill. Vào những ngày mát mẻ đẹp trời, tôi có thể thả bộ đi hết chừng hơn một giờ qua nhiều dãy phố ở downtown, thì cũng đến được khu vực Điện Capitol. (Người Mỹ viết chữ “US Capitol” hay là “Capitol Building” là để chỉ Điện Capitol - Trụ sở của Quốc Hội Liên Bang)

Ở vào độ tuổi 25 – 26, vốn tính tò mò hiếu học tôi say mê quan sát học hỏi tìm kiếm theo sát với sự hướng dẫn của các vị đàn anh trong ngành nghiên cứu luật pháp của LOC. Và vào buổi chiều tối thì còn đi học thêm về chuyên môn luật pháp tại trường Luật của đại học George Washington University (GWU Law School) cũng ở gần nhà mình ở, nên có thể đi bộ mà tới lui dễ dàng được.

Nói chung thì sau thời gian 6 tháng du học tu nghiệp tại Washington DC, tôi thu thập được một số kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn thật là bổ ích cho việc nghiên cứu luật pháp của mình. Đàng khác, thành phố thủ đô Washington nói chung và Thư Viện Quốc Hội Mỹ nói riêng đã để lại trong tôi một kỷ niệm thật đẹp đẽ dễ thương, một ấn tượng sâu sắc kỳ thú và duyên dáng vô cùng. Đó là từ cái thời kỳ năm 1960 – 61 mà cách nay đã trên nửa thế kỷ.

Nhưng quả thật là tôi có cái duyên bền bỉ tái hồi với Washington và LOC rất nhiều lần - đặc biệt là kể từ năm 2000 cho đến nay là năm 2014. Dưới đây tôi xin lần lượt tường thuật chi tiết hơn về một ít công chuyện gần đây của riêng mình tại khu vực Đồi Capitol danh tiếng này.

I – Mái nhà LOC ngày trước thì nay đã gồm đến ba tòa nhà thật đồ sộ.

Hồi năm 1960, thì LOC chỉ gồm có mỗi một tòa nhà lớn gọi là Jefferson Building được xây cất từ thế kỷ XIX. Mà đến năm 2000, khi trở lại thăm viếng nơi đây, thì tôi thấy LOC đã có thêm 2 tòa nhà thật lớn lao đồ sộ và thật hiện đại nữa, nhà nào cũng cao đến 7 - 8 tầng lầu - đó là Madison Building và Adams Building cũng kề sát với Jefferson Building. Cả ba tòa nhà này đều có đường hầm ăn thông với nhau, nên việc di chuyển lui tới của các nhân viên với nhau thì thật là thuận tiện.

Vào buổi trưa, tôi thường tới dùng bữa tại phòng ăn rất rộng lớn chiếm cả một tầng lầu cao tại Madison Building. Nơi đây, thực khách có thể dễ dàng nhìn thấy máy bay lên xuống tại phi trường Reagan ở phía bên kia sông Potomac – quang cảnh trông thật nhộn nhịp và thóang đãng.

Cơ sở vật chất thì vĩ đại như vậy, còn về công trình do LOC đảm nhiệm thực hiện, thì thật là bao quát nhiều lãnh vực mà phải viết cả một cuốn sách họa may mới trình bày cho độc giả có được một khái niệm tương đối chính xác về cái định chế văn hóa lớn vào bậc nhất của thế giới và là niềm tự hào của nước Mỹ. Vì thế, ở đây tôi chỉ xin ghi lại một vài chuyện riêng tư của mình mà có liên hệ đến mấy người bạn là những chuyên viên sáng giá tại một bộ phận trong cơ sở này mà thôi.

LOC quá đông nhân viên, tổng cộng lên đến trên 4,000 người được phân bố ra thành hàng trăm đơn vị ban ngành chuyên biệt. Nhưng riêng tôi, thì gần đây vì nhu cầu nghiên cứu nhỏ nhoi hạn chế của mình, tôi chỉ lui tới có mấy phòng trong Madison Building để tham khảo tài liệu và thăm viếng chuyện trò trao đổi với một số chuyên viên gọi là Legal Analyst làm việc trong một bộ phận gọi là Law Library. Tôi đã có dịp viết về chuyện này trong mấy bài trước đây rồi, nên thấy không cần nhắc lại các chi tiết đó ở đây nữa.

II – Những người bạn thân thiết trong Trung Tâm Nghiên Cứu Luật Pháp Tòan Cầu (The Global Legal Research Center).

1 – Chị Elisabeth Moore phụ trách Kho Tài Liệu có tên gọi là: “The Global Legal Resource Room”.


Elisabeth ở vào độ tuổi 50, người tầm thước mà bặt thiệp. Chị là người rất tận tình hỗ trợ cho tôi trong việc tìm kiếm tài liệu chuyên môn về luật pháp. Phòng của chị chứa đựng khá nhiều tài liệu luật pháp của các nước trên thế giới. Chị có nhiệm vụ sưu tầm lưu trữ và cung ứng ưu tiên cho các chuyên viên của Legal Research Center trong Law Library. Elisabeth cho biết chị theo tôn chỉ xây dựng hòa bình của tôn giáo Quaker. Chị sống và làm việc nhiều năm với Thư viện ở New Orleans và góp phần mau chóng khôi phục sinh hoạt của ngành thư viện tại đây sau vụ bão Katrina.

Hiện chị sinh sống gần thành phố Annapolis Maryland để được gần gũi với con cháu, mà vì thế mỗi ngày phải đi chuyến xe bus riêng biệt mất đến cả giờ mới đến được sở làm. Mỗi lần ghé đến Madison Building, thì người tôi đến nhờ vả đầu tiên, thì chính là chị Elisabeth này đấy.

2 – Peter Roudik, Director of The Global Legal Research Center.

Peter Roudik cỡ ngòai 50 tuổi là người gốc Nga. Chúng tôi quen biết thân thiết với nhau dễ đến 7 – 8 năm nay. Peter cho tôi biết nhiều về hiện tình xã hội ở Nga và một số quốc gia mà đã tách rời khỏi Liên Xô từ vài chục năm nay. Peter là một luật gia chuyên nghiên cứu về ngành Luật pháp đối chiếu và đã làm việc tại Law Library từ trên 15 năm, được xếp vào ngạch Senior Legal Analyst. Và gần đây được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Luật pháp Tòan cầu.

Gặp lại Peter hồi đầu tháng Năm, tôi đùa bỡn hỏi anh: “Chuyện ở Ukraine bây giờ ra sao rồi?” Anh biết tôi đùa giỡn, nên chỉ cười trừ; và dĩ nhiên là tôi cũng không nói gì thêm về chuyện này nữa.

3 – Luật sư Sayuri Umeda là Senior Foreign Law Specialist.

Sayuri Umeda vào độ tuổi 40, chị học luật và làm luật sư ở Nhật một thời gian. Rồi qua Mỹ học tiếp bậc cao học về Luật tại GWU, nơi tôi đã theo học năm 1960. Ông xã của chị là một giáo sư người Mỹ hiện cũng dậy về môn luật tại GWU. Sayuri là một chuyên viên cao cấp về luật pháp của Nhật và một số quốc gia khác ở Á châu, trong đó có ba nước Đông Dương. Tôi đang đợi Sayuri gửi cho tôi các bài nghiên cứu của chị về luật pháp tại Việt nam hiện nay.

Dịp này, tôi gửi cho Sayuri bài tôi mới viết về vụ án chính trị của tôi ở Việt nam đầu thập niên 1990 và cả Bản Tường trình về Tình hình Nhân quyền ở Việt nam trong năm 2013 do Mạng Lưới Nhân Quyền VN vừa mới cho phổ biến. Sayuri tỏ vẻ chú ý đến những vấn đề được trình bày trong các tài liệu này.

4 – Luật sư Laney Zhang là Foreign Law Specialist.

Laney Zhang là người trẻ nhất so với 3 người trên đây, chỉ mới ngòai 30 tuổi. Cô học luật ở Trung quốc rồi sau được học bổng qua học bậc Cao học ở Mỹ. Với khả năng chuyên môn cao và tính tình năng động tháo vát, Laney đã hòan thành được nhiều bài nghiên cứu về các vấn đề luật pháp ở trung quốc ngày nay. Các bài này đã được phổ biến rộng rãi trên các website và được sự phản hồi thuận lợi của giới thức giả trong ngành nghiên cứu luật pháp.

Tại Law Library này, tôi còn thấy mấy chuyên viên khác cũng là người Trung hoa, nhưng tôi chưa có dịp quen biết hay trao đổi chuyện trò với họ. Đối với tôi, Laney tỏ ra có mối thiện cảm như giữa những người hàng xóm láng giềng sống gần gũi nhau mà cụ thể là tôi hay nhắc đến cái chuyện ông nội của tôi xưa kia là một ông đồ dậy chữ Hán – mà rất tiếc là vì ông cụ mất sớm lúc tôi mới được 5 – 6 tuổi, nên đã không được học chữ Hán. Mà thay vào đó, tôi lại được học tiếng Pháp và tiếng La tinh. Laney cười nói: Ông học tiếng Pháp, La tinh rồi cả tiếng Anh, thì rất có lợi cho việc nghiên cứu luật pháp.

Nói chung, thì đây tòan là các chuyên viên đày tài năng, ai nấy đều say mê yêu thích cái nghề nghiên cứu luật pháp và họ được cơ quan cung ứng cho đủ thứ tài liệu tham khảo - mà ít có cơ sở nào khác lại có thể thu thập cho thật đày đủ nếu đem so sánh với kho tư liệu khổng lồ của LOC.

Khi nghe tôi nói là tôi đã từng đến học hỏi tại LOC từ năm 1960 – 61, thì ai nấy đều lác mắt, họ nói: “Năm đó, thì chúng tôi chưa được sinh ra trên cõi đời này!” Nhưng rõ rệt đây là những “hậu sinh khả úy, mà cũng khả ái nữa”. Và mỗi lần ghé thăm Law Library để tìm kiếm tài liệu nào, thì tôi thật phấn khởi vui mừng vì gặp lại được những đồng nghiệp Legal Analyst vừa trẻ tuổi, dễ thương mà cũng vừa rất tài ba nữa.

Về thăm lại Mái Nhà Xưa mà gặp được những con người dễ mến như thế ấy, thì quả thật đó là một niềm vui kỳ thú và sự an ủi rất lớn lao vậy./

Thành phố Baltimore Maryland ngày 15 tháng Năm 2014

Đoàn Thanh Liêm

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.