Hôm nay,  

VN: 60 Năm Nhìn Lại

08/07/201400:00:00(Xem: 7130)

...Mỹ không thể trả “mọi giá” cho mọi cuộc can thiệp quân sự trên thế giới...

Tháng Bẩy này đánh dấu 60 năm ngày chia đôi đất nước. Nó cũng đánh dấu 60 năm ngày Mỹ bắt đầu can thiệp vào VN.

Chuyện chia đôi đất nước đã và đang có rất nhiều vị quan tâm và viết bài, kẻ viết này không chuyên mục về vấn đề này nên sẽ không bàn thêm, mà chỉ xin nhìn vào câu chuyện này dưới một khiá cạnh khác: ảnh hưởng của vấn đề VN trên nước Mỹ, trên phương diện chính trị cũng như ngoài chính trị.

Trên nguyên tắc, Mỹ đã can dự vào VN từ trước Hội Nghị Genève năm 1954. Trước đó, Mỹ đã vào VN từ những năm 44-45 thời Đệ Nhị Thế Chiến. Khi đó SOS, tiền thân của CIA, đã gửi một toán đặc nhiệm do Thiếu Tá Patty cầm đầu, vào rừng thượng du Bắc Việt giúp ông Hồ Chí Minh và nhóm hai tá “lính” của Võ Nguyên Giáp, được phóng đại thành một thứ “lực lượng võ trang tuyên truyền” gì đó.

Nhưng thực tế mà nói, khi đó chính quyền Mỹ chẳng biết và cũng chẳng cần biết ông Hồ là ai, làm gì. Họ chỉ nhìn thấy một nhóm quân võ trang có thể phá rối quân Nhật, cầm chân quân Nhật phần nào tại VN, trong khi quân Mỹ đánh quân Nhật trên Thái Bình Dương. Ví dụ như Bẩy Viễn có một lực lượng tương tự trong bưng, thay vì bận rộn với sòng bài Đại Thế Giới, thì có thể Mỹ cũng đã gửi một Thiếu Tá Patty khác qua giúp Bình Xuyên rồi.

Trong khi chính quyền Mỹ chỉ nhìn chuyện này như một công cụ chiến thuật quân sự nhỏ như hạt cát (một thiếu tá với dăm ba quân nhân, vài khẩu súng lục và carbine,...), ông cáo già họ Hồ đã khai thác và biến nó thành một thứ hậu thuẫn chính trị khổng lồ của đại cường số một trên thế giới thời đó. Ông đã láu cá trích dẫn đoạn mở đầu trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, khiến vài trí thức VN thời đó ngây ngô tin ngay, đến cả vài chục năm sau vẫn còn bám víu vào hình ảnh tưởng tượng của một ông Hồ như Tito, lãnh tụ CS Nam Tư không chịu hoàn toàn lệ thuộc cộng sản Xô Viết. Cũng khiến cho vài anh chính khách Mỹ, nhất là các “học giả” (không phải học thiệt) và nhà báo cấp tiến, ngây ngô không kém, tự vả vào mặt mình vì nghĩ đã để mất cơ hội kết nạp ông Hồ làm đồ đệ.

Nhìn dưới khiá cạnh này thì mới thấy Mỹ chỉ thực sự can thiệp vào VN từ những ngày của Hội Nghị Genève, khi chính quyền Eisenhower hậu thuẫn –hay xúi bẩy?- Quốc Gia VN không ký vào Hiệp Định Đình Chiến, rồi sau đó tích cực xây dựng một miền Nam theo mô thức Mỹ với một tổng thống do họ tiến cử.

Câu chuyện từ đó đến cuộc tháo chạy năm 1975 đã là đề tài của quá nhiều sách báo, ở đây ta không bàn thêm. Chỉ nhìn vào hậu quả của việc can thiệp này lên xã hội và chính trường Mỹ.

Cuộc chiến tại VN đã là cuộc chiến lâu dài nhất lịch sử Mỹ (trước khi có các cuộc chiến Iraq và Afghanistan), tốn tiền nhất, chết nhiều lính nhất, phân hoá xã hội Mỹ nhất, để rồi đưa đến kết cuộc tủi hổ nhất cho Mỹ và tai hại nhất cho VN.

Nhìn lại lịch sử cận đại Mỹ thì sẽ thấy thập niên 60 đã là cao điểm của cuộc chiến tại VN, mà cũng là một thời kỳ nhiễu nhương, nổi loạn, bạo động chết người (hai anh em TT Kennnedy, mục sư Martin Luther King, thống đốc George Wallace, mục sư Malcolm X). Một thập niên đổi đời của Mỹ.

Đó là thời của cách mạng văn hoá kiểu Mỹ. Tuy không đẫm máu như cách mạng văn hoá của Mao, nhưng dư âm lớn gấp bội vì chẳng những đã ảnh hưởng đến thời cuộc khi đó, mà đã biến dạng hoàn toàn xã hội và văn hoá cũng như suy tư và lối sống Mỹ, một cách vĩnh viễn.

Cuộc cách mạng văn hoá Mỹ đã là một cuộc “đảo chính” của giới trẻ Mỹ, bất mãn với đời, muốn đảo lộn mọi giá trị luân lý, muốn phá tan mọi trật tự xã hội. Tìm vui trong hiện tại, trong ma túy, trong nhạc đúng là “kích động”, thể hiện qua chống báng mọi quyền lực, mọi phong tục tập quán gọi là “cổ lỗ”. Đó là thời vàng son của nhạc Beatles và Rolling Stones, của marijuana, của quần áo màu mè điên loạn, đầu tóc rối bù, và nhất là của sex, sex, và sex.

Cuộc cách mạng này, mà nhiều người gọi là cách mạng tình dục, cũng đã là cuộc cách mạng “giải phóng” phụ nữ Mỹ, thật sự mang họ ra khỏi nhà bếp và phòng ngủ.

Thời đó cũng là thời của những anh nghiện ngập lêu lổng phóng túng như Bush, hay lăng nhăng bạ đâu ngủ đấy như Clinton. Bush đã thức tỉnh và cai rượu vĩnh viễn. Clinton thì đã mang theo cái tật bạ đâu ngủ đấy vào tới Tòa Bạch Ốc luôn, khiến xém mất chức qua vụ Monica.

Phải so sánh tình cảnh thời đó với nước Mỹ gia giáo, lễ nghiã, ổn định, trật tự, hiền hoà của thập niên 50 với cha già đạo mạo Eisenhower, thì mới thấy được mức đổi đời của cuộc cách mạng văn hóa của thập niên 60.

Cuộc cách mạng này là hoàn toàn tự phát, chẳng ai chỉ đạo, chẳng ai hướng dẫn, cũng chẳng ai đốc xúi. Các nhà xã hội học đã và sẽ còn tốn nhiều giấy mực nghiên cứu về hiện tượng này. Nhưng có điều không cần bàn thêm là cuộc chiến VN đã là nguyên nhân lớn nhất đưa đến cuộc nổi loạn tự phát này của giới trẻ Mỹ.

Mỗi ngày, họ đều nhìn thấy cảnh bom đạn lửa khói, quan tài và bao bố đựng xác, thương binh máu me be bét. Nói như truyền thông Mỹ nhận định, chiến tranh VN đã vào tới phòng ăn, phòng khách của dân Mỹ qua sự phát triển cực nhanh của truyền hình. Thanh niên Mỹ đâm ra sợ hãi cho số phận (nên nhớ hồi đó vẫn còn chế độ quân dịch, tất cả thanh niên đều bị bắt buộc đi lính, trừ vài trường hợp đặc miễn, cho đến khi TT Nixon đổi qua chế độ tự nguyện). Chỉ còn muốn sống vội trước khi chết. Vội đến độ phải phá bỏ mọi quy tắc, luật lệ nếu cần, “phá giới” tuyệt đối.

Cuộc nổi loạn của giới trẻ, tuyệt đại đa số là dân da trắng, cũng lan mạnh qua khối dân da màu, tạo nên một cuộc nổi loạn tương tự, nhưng mang màu sắc chính trị nặng hơn nhiều. Mà cũng đổ máu nhiều hơn. Đó là cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng của dân da đen.

Trên cả nước Mỹ, nhất là tại các tiểu bang miền đông nam, từ Louisiana men biển lên tới Virginia, và cả Hoa Thịnh Đốn, hàng triệu dân da đen đã xuống đường, biểu tình trong hòa hoãn trật tự, cũng như trong bạo động, đốt phá, đánh nhau với quân đội, cảnh sát, dùi cui và chó săn, để đòi bình quyền. Đưa đến những luật về dân quyền dưới thời TT Johnson, cho họ bình quyền thật, tuy chưa hoàn hảo.

Cuộc nổi loạn này, cũng như cuộc nổi loạn văn hoá, đã để lại những dấu ấn đúng là đổi đời chứ không nhất thời như cách mạng văn hoá của Mao đã chẳng để lại dấu ấn nào ngoại trừ hàng loạt nhà tù và nghiã địa mới.

Một bằng chứng không thể rõ ràng hơn: TT Obama. Một người da đen –tuy lai- lên lãnh đạo cả nước Mỹ. Một chuyện không thể tin được chỉ cách đây vài năm.

Không ai quên được câu nói của TT Clinton với Thượng Nghị Sĩ Ted Kennedy năm 2008, cách đây chỉ có 6 năm. Khi nói về ứng viên Obama đang chống đối với bà vợ ông, TT Clinton đã nói “chỉ cách đây vài năm, họ vẫn chỉ biết bưng cà phê cho chúng ta thôi”.

Giống như các thanh niên da trắng, thanh niên da đen cũng chứng kiến cuộc chiến VN trong phòng ăn của họ. Rồi họ cũng thấy thêm một cái gì không công bằng, không ổn. Dân da đen chỉ là 10% tổng số dân Mỹ, nhưng quân nhân da đen lại lên tới hơn 40% tại chiến trường VN, và tỷ lệ tử vong lên tới gần 30%. Điều đáng bực mình hơn nữa, tại sao họ lại phải đi lính nhiều hơn, bị thương nhiều hơn, chết nhiều hơn cho cuộc chiến này, trong khi ngay tại xứ Mỹ này, họ chỉ là công dân hạng hai, đi xe búyt ngồi cuối hàng, bị cấm vào trường học, cửa hàng, tiệm ăn, khu phố của dân da trắng? Họ bị cấm tại tất cả mọi nơi ngoại trừ trên chiến trường.

Đó là nói về ảnh hưởng chiến tranh VN trên phương diện văn hoá, xã hội.

Về quân sự, cuộc chiến đã là đề tài của hàng hà sa số nghiên cứu về chiến lược, chiến thuật. Đã khai sinh ra chủ thuyết Powell của Đại Tướng Colin Powell, chủ trương không tham chiến vớ vẩn nếu không có nhu cầu thật sự về an ninh hay quyền lợi, mà nếu tham chiến thì phải đánh xả láng, áp dụng sức mạnh tối đa để đạt mục đích chứ không có chuyện leo thang từng bước, vừa đánh vừa run, càng leo thì thang lại càng dài ra. Và quan trọng nhất là phải có kế hoạch rút ra. Đó là cách mà TT Bush đã áp dụng khi đánh Iraq, toàn thắng quân Iraq trong vài tuần. Nhưng TT Bush chỉ áp dụng chủ thuyết Powell khi nhẩy vào mà lại không có kế koạch rút lui chu đáo, khiến bị sa lầy nặng.

Cuộc chiến VN cũng đã là bài học đưa đến chủ thuyết chiến tranh chính trị được tướng Petraeus áp dụng để bình định Iraq. Tướng Petraeus khẳng định sức mạnh quân sự là phương tiện ngắn hạn để đạt thành công trên chiến trường như tướng Powell nhận định, nhưng muốn bình định lâu dài thì chính trị, lấy cảm tình người dân, tôn trọng danh dự, phong tục, cách sống, và mạng sống của họ, mới là yếu tố quyết định. Giặc trốn trong nhà dân thì phải thuyết phục dân tố giác họ, chứ đốt nhà dân chỉ là đổ dầu vào lửa. Chiến lược này đã thành công, ổn định phần nào Iraq, nhưng chỉ mới bắt đầu vài bước thì TT Obama nhậm chức, thay thế bằng chiến lược tháo chạy bằng mọi giá.

Việc Mỹ can thiệp vào VN rồi thất bại ê chề năm 1975 cũng là bài học vô giá cho giới lãnh đạo chính trị Mỹ, từ TT Carter cho đến TT Obama.

Sự can thiệp trực tiếp vào VN bằng quân sự khởi đầu dưới chính quyền Kennedy, theo đúng quan điểm “cứu nhân độ thế” cả thế giới của khối cấp tiến thích “thế thiên hành đạo”. Bài diễn văn nhậm chức của TT Kennedy đã đi vào lịch sử với những câu dao to búa lớn kiểu “... sẽ trả mọi giá, chịu mọi gánh nặng, hứng mọi khổ cực để hỗ trợ mọi nước bạn, chống mọi kẻ thù, để bảo đảm sự tồn tại và thành công của tự do”.

TT Kennedy không phải là tổng thống Dân Chủ đầu tiên muốn làm cảnh sát thế giới. Tất cả những cuộc chiến lớn trong lịch sử Mỹ đều bắt đầu trong các triều đại Dân Chủ: Thế Chiến Thứ Nhất dưới TT Woodrow Wilson, Thế Chiến Thứ Hai với TT Franklin Roosevelt, Chiến Tranh Cao Ly với TT Harry Truman. Và chiến tranh VN với TT Kennedy.

Nhưng rồi cuối cùng cái giá nước Mỹ chịu trả cũng không thể là “mọi giá”, mà có giới hạn. Đưa đến cuộc tẩu tán năm 75. Đó là bài học lớn nhất cho các vị lãnh đạo chính trị Mỹ: sức mạnh quân sự của Mỹ không phải là vô giới hạn, và Mỹ không thể trả “mọi giá” cho mọi cuộc can thiệp quân sự trên thế giới.

Bài học đó đưa đến tình trạng các chính khách Dân Chủ từ quan điểm thế thiên hành đạo đã chuyển qua thái độ rụt rè, gần như khiếp nhược, yếu đuối trong các vấn đề an ninh quốc gia.

Toàn thể nhân viên Tòa Đại Sứ Mỹ tại Tehran bị sinh viên quá khích Iran bắt nhốt làm con tin trong hơn 400 ngày trong khi TT Carter ôm đầu gãi tai không biết phải làm gì. Nam Tư phân hoá đánh giết nhau tơi bời, TT Clinton chống mắt nhìn cho đến khi áp lực Âu Châu quá mạnh thì đành can thiệp bằng cách cho máy bay tấn công và thả bom từ 9 từng mây xanh để tránh thiệt hại. Vừa bị quân khủng bố đánh một trận, chết chưa tới hai chục quân nhân tại Mogadishu là TT Clinton đã ra lệnh bỏ của chạy lấy người. Tại Rwanda, chiến tranh bộ tộc khiến cả triệu dân vô tội bị thảm sát. TT Clinton ngó lơ, để rồi cả chục năm sau, sau khi yên ổn hoà bình được tái lập, thì mới... xin lỗi dân Rwanda vì đã không giúp họ.

TT Obama thì lo cuốn dù ra khỏi Iraq và Afghanistan bất chấp hậu quả. Tại Libya, trước áp lực mạnh của đồng minh Anh – Pháp, ông đành ra lệnh máy bay tấn công theo kiểu Clinton, rồi chấp nhận “lãnh đạo từ phiá sau”. Tại Syria, ông hùng hổ vạch lằn ranh đỏ, hăm dọa TT Assad sẽ phải trả giá rất đắt, nhưng đến khi TT Assad vượt qua lằn ranh thì lủi thủi núp sau lưng TT Putin, chạy về Mỹ.

Chẳng phải các tổng thống không, mà toàn thể đảng Dân Chủ cũng đã trở thành đảng chủ hòa tối đa, với những ứng viên tổng thống nổi tiếng thích bồ câu như Robert Kennedy, Eugene McCarthy, George McGovern, Edmund Muskie,...

Trong các cuộc tranh cử họ đều là những tiếng nói chống việc Mỹ tham chiến tại VN, thậm chí cũng là những tiếng nói đả kích các chính quyền Miền Nam VN mạnh nhất, và thoá mạ quân lực VNCH tệ hại nhất. Ngoại Trưởng John Kerry đã nổi tiếng với cuộc điều trần trước quốc hội khi ông lớn tiếng bôi bác lính miền Nam chỉ giỏi ăn cắp gà và hãm hiếp phụ nữ.

Nói chung, chính sách can thiệp của Mỹ cũng trở nên thận trọng hơn. TT Bush khi còn tranh cử với PTT Al Gore, đã khẳng định Mỹ cần có chính sách đối ngoại khiêm tốn hơn và tuyệt đối tránh lo chuyện dựng nước dùm thiên hạ. Định mệnh trớ trêu đưa đến vụ 9/11 ép ông phải thay đổi toàn diện cái nhìn đó, đánh Afghanistan và Iraq, rồi tốn không biết bao nhiều tiền bạc, công sức để lo xây dựng lại hai nước này. Cuối cùng cũng vẫn thất bại. Đánh nhau thì khó ai giỏi bằng Mỹ, dựng nước thì khó ai dở bằng Mỹ. Cộng Hoà hay Dân Chủ chẳng khác gì nhau.

Chiến tranh VN cũng thay đổi cả cái nhìn của các chính khách Mỹ trong chính sách di dân. Bình thường thì đảng Dân Chủ luôn luôn chủ trương mở rộng cánh cửa nhân đạo đón nhận dân khắp thế giới đến đất tự do, nhưng đó đã không phải là cách các chính khách Dân Chủ đón nhận người tỵ nạn Việt khi chiến tranh chấm dứt.

PTT Biden là người cầm đầu cuộc vận động không cho dân Việt vào tỵ nạn tại Mỹ. Đương kim Thống Đốc Cali Jerry Brown hồi đó đã là Thống Đốc Cali, cũng là tiếng nói lớn công kích việc nhận dân tỵ nạn và đòi chính quyền Liên Bang không được vứt (dump) dân tỵ nạn Việt vào tiểu bang của ông. Thậm chí, ông đã tìm cách ngăn cản không cho các chuyến bay chở dân tỵ nạn được đáp xuống phi trường quân sự Travis Air Force Base, gần thủ đô Sacramento, bất chấp lệnh của TT Ford.

Dân Việt tỵ nạn không thể quên những chuyện này. Việc nhiều người tỵ nạn ủng hộ các ông Biden, Kerry, và Brown là quyết định cá nhân của mỗi người. Chúng ta qua đây tỵ nạn chính là để mỗi người có được cái quyền muốn nghĩ sao thì nghĩ, muốn làm gì thì làm, chỉ cần đừng giết nhau hay nhục mạ nhau khi khác ý là được.

Tính sổ cuối cùng, việc can thiệp vào VN đúng là một biến cố đổi đời cho nước Mỹ, có thể còn quan trọng hơn cả việc Mỹ can dự vào hai cuộc thế chiến. Hai cuộc chiến đó, nhờ Mỹ can thiệp, đã thay đổi bản đồ thế giới trong khi việc can dự vào cuộc chiến tại VN cuối cùng chỉ xóa được làn ranh tạm thời phân chia bắc – nam VN. Không ai chối cãi được chuyện này.

Nhưng đối với xã hội, văn hoá, chính trị Mỹ, hai cuộc thế chiến hầu như chẳng thay đổi gì, chẳng có hậu quả gì lớn lao. Trong khi cuộc chiến VN đã thay đổi hoàn toàn nước Mỹ, thay đổi đến tận gốc rễ. Mỹ đã cuốn gói chạy khỏi VN là điều tủi nhục. Nhưng bù lại, cuộc chiến đó cũng đã giúp thay đổi xã hội Mỹ, với dân da đen được tôn trọng hơn, mở cửa cho một người da đen vào Tòa Bạch Ốc, với phụ nữ được bình đẳng hơn giúp bà Hillary đi đến ngưỡng cửa Tòa Bạch Ốc, với xã hội trở nên phóng khoáng hơn mở đầu cho việc chấp nhận phá thai và hôn nhân đồng tính dễ hơn.

Đó là chiều hướng tốt đẹp hơn hay xấu hơn, là chuyện các sử gia và xã hội học sẽ còn thảo luận dài dài. Chúng ta chỉ cần lo ăn mừng kỷ niệm 238 năm lập quốc của quê hương thứ hai, rồi suy gẫm về chuyện đất nước Việt ta đã đóng góp như thế nào vào việc xây dựng đất nước này. (06-07-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.