Hôm nay,  

Nhớ Hà Nội Xưa Thuở Thiếu Thời

16/10/201400:00:00(Xem: 6055)

Gia đình chúng tôi đã qua định cư tại California được gần 20 năm. Tính ra thì số những năm tháng này cũng tương đương với khỏang thời gian tôi sinh sống trên quê hương đất Bắc là nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Lúc này là vào giữa tháng 10 năm 2014, thì khí hậu ở đây tại bờ biển miền Tây nước Mỹ (West Coast) đã bắt đầu mát dịu, nhiệt độ ban ngày chỉ vào khỏang trên dưới 20 độ C – chứ không còn nóng bức ở mức 35 – 37 độ như hồi tháng trước vào cuối mùa hè nữa. Có thể nói Mùa Thu đang tới trên đất Mỹ đây rồi.

Buổi sáng nay, tôi nhớ lại mấy câu thơ mình đã làm hồi 30 năm trước, lúc bắt đầu bước vào tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh” và đang sinh sống tại Sài gòn. Xin được ghi lại đày đủ bài thơ đó như sau:

Mùa Thu Nhớ Bạn

Mùa Thu chợt đến - lòng man mác
Nhớ Hà nội xưa - thuở thiếu thời
Bạn bè năm ấy – giờ đâu nhỉ?
Kẻ vắng người còn – dạ khó nguôi!

Sài gòn 1983.

Tôi sinh trưởng tại một làng quê trong tỉnh Nam Định cách xa Hà nội chừng trên 100 cây số thôi. Vì thế mà ngay từ trước năm 1945 trong làng đã có nhiều bà con đi làm hay định cư ở ngay tại đất Hà thành hoa lệ này. Khi về thăm viếng bà con trong làng, thì những người này thường hay kể chuyện về cuộc sống văn minh tiến bộ của người dân tại Hà nội. Và bọn trẻ con chúng tôi luôn luôn thích thú kể lại cho nhau nghe những câu chuyện ngộ nghĩnh đó về phong cảnh và con người của cái thành phố ngàn năm văn vật này.

Rồi đến năm 1952 lúc đã bước vào tuổi 18, thì tôi được gia đình gửi ra theo học tại Trường Chu Văn An ở Hà nội. Đã từng trải qua cảnh chiến tranh tàn phá kinh hòang ác liệt ở miền quê, tôi thật chóang ngợp với tình hình an ninh trật tự và sung túc thịnh vượng của thành phố là thủ phủ của miền Bắc Việt nam vào thời gian đó. Và chỉ vài ba tháng sau, là tôi đã có thể thích nghi hòa nhập vào với cuộc sống chung với các bạn đồng trang lứa với mình nơi thành phố xinh đẹp dễ thương, thanh lịch và đày dãy những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh này. Xin được ghi chi tiết hơn về cuộc sống thời trai trẻ của thế hệ chúng tôi ở Hà nội thời kỳ trước năm 1954.

I – Cái thời vui sống ở Hà nội năm xưa ấy.

Với tính vô tư năng động của tuổi trẻ, lớp bạn học chúng tôi lao mình vào chuyện học tập để bù đắp lại quãng thời gian bị mất trong những năm phải di tản chạy lọan trước đây. Mà thành phố Hà nội lúc nào cũng hào phóng cung ứng cho bọn trẻ chúng tôi những cơ hội giải trí thư giãn thỏai mái - sau những giờ phút phải tập trung suy nghĩ, học tập miệt mài căng thẳng.

Một địa điểm chúng tôi thường lui tới để gặp gỡ nhau và nhìn ngắm phố phường, đó là Hồ Hòan Kiếm ở trung tâm thành phố. Nơi di tích lịch sử với truyền thuyết con rùa mang lưỡi gươm trả về cho nhà vua Lê Lợi (The Lake of the Returned Sword), thì lúc nào cũng tấp nập xe cộ qua lại và người đi bộ vòng quanh ven hồ. Và vào những ngày mùa hè oi bức chúng tôi còn thường rủ nhau đi tắm bơi lội tại khu hồ Quảng Bá Nghi Tàm sát với Hồ Tây.

Gặp ngày trời đẹp, chúng tôi còn rủ nhau dành cả một buổi chiều để đạp xe chạy vòng quanh khu vực Hồ Tây dài đến trên 20 cây số - để hít thở không khí trong lành và thưởng thức những vẻ đẹp nơi đồng quê êm ả thanh bình tại vùng ngọai thành Hà nội. Ở vào tuổi mười tám đôi mươi, chúng tôi thật lòng say mê hồn nhiên vui sống với “cái tuổi thanh xuân thơ mộng ấy”.

Chúng tôi còn rủ nhau đi coi những phim từ Hollywood của Mỹ thật hấp dẫn với những tài tử gạo cội, màu sắc âm thanh tòan hảo. Đặc biệt phim “Gone with the wind” (Cuốn theo chiều gió) với cặp diễn viên Clark Gable – Vivien Leigh trổ tài diễn xuất thật tuyệt vời.

1/ Mùa thu Hà nội.

Và đặc biệt là cảnh vật nơi đất kinh kỳ vào mùa thu, thì thật đày vẻ quyến rũ – quả thật nó đã gây ấn tượng thật sâu đậm trong tâm hồn nhạy cảm của lớp thanh thiếu niên chúng tôi. Đó là phương diện khách quan của khung cảnh địa lý nhân văn. Còn về mặt tâm lý chủ quan, thì chúng tôi chịu ảnh hưởng nhiều bởi thơ văn và âm nhạc thời tiền chiến - với những bài thơ bất hủ của cụ Nguyễn Khuyến như “Thu ẩm”, “Thu điếu”, Thu vịnh” v.v..., hay các bài nhạc của Đặng Thế Phong như “Giọt Mưa Thu”, “Con Thuyền Không Bến”. Và cả của những bài văn, bài thơ trong kho tàng văn chương của Pháp nữa, điển hình như bài “Chanson d'automne” (Ca khúc Mùa Thu) tuyệt vời của Paul Verlaine. Tôi thật vui thích sảng khóai mỗi khi ngâm nga những câu thơ tuyệt đẹp trong Truyện Kiều của cụ Tiên Điền Nguyễn Du, cụ thể như câu: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”.

Vì thế, mà các văn nghệ sĩ ấy đã giúp cho chúng tôi biết thưởng ngọan những vẻ đẹp ngây ngất của mùa thu một cách cực kỳ linh động viên mãn. Điều này rõ rệt đã góp phần rất quan trọng để làm tăng thêm phẩm chất trong đời sống tình cảm của thế hệ thanh niên chúng tôi (quality of life) - mặc dầu hồi đó cuộc chiến tranh đang ở vào giai đọan ác liệt ngay tại các miền quê không xa Hà nội bao nhiêu.

2/ Chuyện học hành, thi cử hồi ấy.

Tại trường Chu Văn An là một cơ sở giáo dục có danh tiếng vào bậc nhất ở miền Bắc từ lâu, thì tôi được sát cánh với nhiều bạn học thật thông minh xuất sắc – nhờ vậy mà mình cũng phải cố gắng để mà theo kịp với chúng bạn. Hồi đó, các sách giáo khoa bằng tiếng Việt vẫn còn thiếu, nên chúng tôi phải học bài trong các sách viết bằng tiếng Pháp với lối trình bày in ấn thật rõ ràng, sáng sủa đẹp mắt. Và nói chung, thì các thầy giáo đều rất tận tâm trong việc sọan bài giảng và hết lòng hướng dẫn cho chúng tôi trong việc học tập để đạt được kết quả tốt trong các kỳ thi kết thúc hai năm cuối bậc Trung học.

Và chừng vài tháng trước kỳ thi văn bằng Tú Tài I vào năm 1953 cũng như Tú Tài II vào năm 1954, chúng tôi thường họp thành từng nhóm 3 - 4 người để cùng học ôn bài chung với nhau. Nhờ vậy, mà trong lớp có đến gần một nửa học sinh trường công lập đều vượt qua được cửa ải kỳ thi Tú Tài I - mà hồi đó được coi là rất gay go hóc búa. Trong khi đó, thì số thí sinh từ các lớp tư thục lại đậu rất ít, có lớp không quá 10% số học sinh thi đậu. Vì số học sinh thi đậu không nhiều, nên danh sách các học sinh trúng tuyển đều được công bố trên các tờ báo ở Hà nội nữa, để bà con tiện bề theo dõi.

II – Bạn bè năm ấy – giờ đây ai còn, ai mất?

Có thể nói trong mấy năm sinh sống và học hành tại Hà nội hồi đó, thì tôi có duyên quen biết gắn bó thân thiết được với cả trăm bạn đồng môn, bạn cùng lứa tuổi với mình. Chúng tôi sống gần gũi nhau, học tập sát cánh với nhau - và cùng có chung những mộng đẹp về một tương lai tươi sáng cho bản thân mỗi người, cũng như cho đất nước và dân tộc Việt nam thân yêu của mình.

Thế nhưng do Hiệp định Geneva quy định việc chia cắt phân đôi đất nước, mà anh em chúng tôi lại phải rời xa nhau, kẻ thì di cư vào miền Nam, người thì theo với gia đình ở lại miền Bắc. Cho đến năm 2014 này, thì chúng tôi đã chia tay sống xa cách nhau đúng 60 năm rồi. Xin ghi lại danh tánh các bạn đã ra đi và các bạn mà tôi đã có dịp gặp lại trong thời gian gần đây.

1/ Những người bạn đã vĩnh viễn ra đi.

Ít nhất phải có đến cả chục bạn đã ra đi từ giã cõi đời, mỗi người trong một hòan cảnh khác nhau. Xin liệt kê như sau.

*Trong số các bạn ở lại miền Bắc sau năm 1954, thì gần đây tôi biết rõ các bạn này đã từ giã cõi đời : Các anh Phạm Xuân Nhàn, Đặng Mộng Lân, Đặng Công Tọai.

*Số bạn di cư vào miền Nam và đã mất ở đây : Các anh Đỗ Vinh, Nguyễn Bá Khánh, Nguyễn Hồ Quỳ, Nguyễn Văn Quí.

*Số bạn mất ở California : Các anh Vũ Ngô Luyện, Nguyễn Ngọc Đĩnh, Nguyễn Ngọc Phan, Nguyễn Tri Phương, Đoàn Hữu Khánh.‎

2 / Những người bạn vẫn còn liên lạc được gần đây.

A - Khá nhiều bạn hiện định cư trên đất Mỹ, cụ thể như :

*Tại California : Các anh Trịnh Đình Cương, Trần Quang Hải, Đỗ Phan Ngọc, Nguyễn Trọng Hiền, Vũ Ngọc Óanh, Nguyễn Ngọc Thụy, Ngô Văn Quang, Trần Văn Điền, Lưu Trung Khảo,

Tại Texas: Các anh Vũ Tiến Thông, Đặng Văn Đức, Vũ Hữu Bao, Đỗ Huy Hòang.

Tại Washington DC : Các anh Hòang Song Liêm, Ngô Đình Thuấn, Bùi Hữu Thư.

Tại New Jersey: Anh Chu Văn Hồ.

Tại Florida; Anh Vũ Ngọc Đại

B - Tại Paris Pháp quốc, thì tôi đã gặp lại các bạn : Đỗ Đăng Di, Võ Thế Hào, Bạch Ly Từ, Vũ Dương Tuyền, Phạm Xuân Yêm.

C – Tại Montréal Canada, thì có các bạn : Trần Văn Kim, Đinh Bảo Lĩnh, Bùi Thiệu Tường.

D – Tại Việt Nam, thì ở Hà nội có các bạn : Đỗ Xuân Lôi, Ngô Văn Trọng, Nguyễn Phúc Giác Hải.

*Ở Sài gòn, thì có Phạm Hòai Đức, Lê Đức Cửu và đặc biệt có ba anh là Linh mục Công giáo : Hòang Sĩ Quí, Nguyễn Đức Thiệp, Đoàn Phú Xuân.

III – Để tóm lược lại.

Trên 60 năm đã qua, bao nhiêu chuyện đổi thay với những hệ lụy buồn vui đã xảy ra trên đất nước ta. Mà khủng khiếp nhất là những đau thương tang tóc chồng chất gây ra bởi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn – khiến làm thiệt mạng đến cả mấy triệu con người - mà tất cả đều là bà con ruột thịt thân yêu của hết thảy chúng ta. Rồi tiếp theo đó lại là một chế độ độc tài đảng trị hủ lậu và khắc nghiệt nhất trong lịch sử trên 4,000 năm của đất nước ta.

Mặc dầu vậy, cái tình cảm thân thương gắn bó giữa các bạn học năm xưa tại Hà nội lúc chúng tôi mới ở vào tuổi mười tám đôi mươi, thì không bao giờ lại có thể bị suy xuyển phai lạt đi được. Vào năm 2014 lúc này, chúng tôi đều đã bước qua tuổi 80 cả rồi và cũng đều đủ từng trải để mà biết an phận vui sống cho đến hết những ngày cuối đời của mình.

*Bài viết ngắn ngủi này nhằm gợi lại chút ít kỷ niệm của thế hệ bọn trai trẻ chúng tôi đã có duyên gặp gỡ, sinh sống và học tập chung với nhau nơi thành phố lịch sử thân yêu hồi những năm đầu của thập niên 1950.

Để kết thúc, ngòai bài thơ “Mùa Thu Nhớ Bạn” đã ghi ở phía trên, tôi xin được gửi thêm đến tất cả các bạn hai câu thơ sau đây nữa :

“Cái tuổi thanh xuân thơ mộng ấy
Suốt đời hồ dễ mấy ai quên?”

Và cũng xin được gửi lời thăm hỏi thân ái đến với tất cả các bạn.

Xin được bày tỏ nỗi niềm thương tiếc đối với tất cả bạn đã vĩnh viễn ra đi.

Xin cầu chúc các bạn cùng gia quyến luôn được mọi sự An Lành./

Thành phố Costa Mesa, California Tháng Mười 2014

Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.