Hôm nay,  

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Kỳ 3)

06/02/201520:16:00(Xem: 12533)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror
Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: [email protected], 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.


image007II. Huế và nơi chốn trận Tổng Công Kích Tết 1968

Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
(Nhã Ca, “Tiếng Chuông Thiên Mụ”)

Thành phố Huế thơ mộng nằm ở miền Trung nước Việt, cách Hà Nội về phía bắc khoảng sáu trăm bốn mươi bốn kílômét và cách Sài Gòn (nay là Thành Phố HCM) ở phía nam khoảng một ngàn một trăm hai mươi sáu kílômét. Sông Hương chảy qua thành phố.
Qua nhiều thế kỷ Việt Nam bị chia cắt giữa hai dòng họ cai trị: chúa Trịnh cai trị miền bắc đóng đô ở Hà Nội, và từ thế kỷ thứ 17 chúa Nguyễn cai trị miền nam đóng đô ở Huế. Năm 1802, một trong những hậu duệ của chúa Nguyễn đã thống nhất toàn lãnh thổ Việt Nam, và đặt kinh đô tại Huế. Thành phố này trở thành vương thổ với những lăng tẩm, cung điện, lầu đài. Những kiến trúc này đều tập trung bên bờ phía bắc của sông Hương trong một phần của thành phố gọi là Thành Nội, được bao bọc bởi những bức tường bảo vệ.
Vào năm 1968 có khoảng từ 120,000 tới 140,000 người sống tại Huế, và hầu hết cư ngụ trong Thành Nội. Cũng có những khu cư dân nhỏ hơn ở phía nam của sông Hương. Vùng Phi Quân Sự (DMZ) mà trong cuộc phân chia Việt Nam làm hai miền nam bắc vào năm 1954 đã được thiết đặt cách Huế về phía bắc bảy mươi hai kílômét.
Bởi vì di sản vương triều của nó, Huế trở thành biểu tượng của giáo dục, văn hóa, và truyền thống. Một trong những trường học nổi tiếng nhất của Việt Nam thời thuộc địa [Pháp], là trường Pháp-Việt có tên Quốc Học (Trường Quốc Gia), được thành lập vào năm 1896. Trong số những người sáng lập [ngôi trường này] là Ngô Đình Khả, cha của vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), tức Ngô Đình Diệm, nhiếp chính từ năm 1955 tới 1963, và Pierre Martin Ngô Đình Thục, tổng giám mục Công Giáo La Mã của Huế từ năm 1960 tới 1963.(23)
Ngô Đình Diệm học tại trường đó [Quốc Học] cùng với nhiều khuôn mặt Việt Nam nổi tiếng, gồm địch thủ của Ngô Đình Diệm là Hồ Chí Minh, được biết vào thời học ở đó với tên Nguyễn Tất Thành, và Đại Tường Võ Nguyên Giáp, cả hai sau này đều là những lãnh đạo của Bắc Việt. Nhiều nhà thơ, nhà văn, và khoa học gia nổi tiếng mà sau này đã tham gia vào nhiều bên khác nhau của cuộc chiến tranh Việt Nam cũng nhận được sự giáo dục từ Trường Quốc Học này.
Huế cũng là thành trì Phật Giáo của cả nước. Theo lịch sử, những người Phật Giáo thường ở vị thế phòng vệ. Trước khi Pháp đô hộ Việt Nam vào hậu bán thế kỷ thứ mười chín, những nhà Phật Giáo chống đỡ với sự thắng thế của Khổng Giáo, một đạo giáo đã trở thành căn bản xã hội-triết lý chính thức của xã hội Việt Nam. Sau khi Pháp xâm chiếm, họ [các nhà Phật Giáo] chống lại Cơ Đốc Giáo và chủ nghĩa thực dân Pháp. Khuynh hướng chống đối nhà cầm quyền này tiếp tục sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam. Các nhà Phật Giáo ở Huế trở thành nền tảng kiên định của việc chống lại các chính thể cai trị tại Sài Gòn. Sự đứng dậy của những nhà Phật Giáo Huế tại Miền Nam Việt Nam gồm cuộc vận động năm 1963 chống lại vị tổng thống Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm. Các bức hình tự thiêu của một trong những vị tăng sĩ Phật Giáo, gốc Huế, gây sốc toàn thế giới và mang mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ngô Đình Diệm tới chỗ đổ vỡ.
Cuộc vận động của Phật Giáo không chấm dứt sau vụ ám sát ông Ngô Đình Diệm trong thời gian quân đội đảo chánh vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Các nhà Phật Giáo, với sự tham gia của học sinh sinh viên, tiếp tục biểu tình chống các chính quyền được thành lập vào năm 1964 và 1965, và đặc biệt chống chính quyền được thành lập vào tháng 6 năm 1965 bởi một nhóm tướng lãnh quân đội, mà kết cuộc đã mang lại một sự ổn định nào đó cho tình hình chính trị tại Sài Gòn. Gần một năm, chính trị tại Miền Nam bị chi phối bởi sự kết hợp tay ba giữa tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ và tướng lục quân Nguyễn Văn Thiệu, một người Công Giáo, cả hai đều lập cứ điểm tại Sài Gòn, và tướng lục quân Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân Đoàn I chịu trách nhiệm khu vực gồm các thành phố Huế và Đà Nẵng, là những thành phố lớn thứ 2 và thứ 3 tại Nam Việt Nam. Vào năm 1965, các tăng sĩ Phật Giáo cùng với sinh viên học sinh thành lập Ủy Ban Đấu Tranh Quân Dân, được biết như là Phong Trào Đấu Tranh, tại Huế. Sự căng thẳng leo thang xa hơn và lên đến cao điểm vào năm 1966 khi Nguyễn Cao Kỳ bãi chức đối thủ của ông là Nguyễn Chánh Thi, vị tướng được lòng dân trong quân đội tại phía bắc của Nam Việt Nam. Phong Trào Đấu Tranh lên cao vào mùa xuân năm 1966. Cuộc nổi dậy đã bị đàn áp bởi chính quyền với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh và các thành viên của phong trào đã trốn lên rừng và gia nhập lực lượng Cộng Sản ở đó. Vào thời gian Trận Tấn Công Tết vào mùa xuân năm 1968, những nguời này trở lại và đóng vai trò quan trọng trong các biến cố của Trận Chiến tại Huế.



Hue bi tan phaAMột cảnh tàn phá tại Huế Tết Mậu Thân. 


Trận Tấn Công Tết được bắt đầu vào ngày 30 tháng 1 năm 1968, thời gian quan trọng nhất của những ngày lễ của Việt Nam -- Tết Âm Lịch, thường được gọi là Tết Việt Nam. Đối với người Việt, cuộc tấn công này được biết với tên gọi Tết Mậu Thân, đặc biệt chỉ cho Năm Mới 1968. Đó là một phần của chiến dịch đông-xuân năm 1967-68 của Cộng Sản. Từ bỏ chiến thuật du kích thông thường được áp dụng bởi Cộng Sản trước đó, chiến dịch này sử dụng chiến tranh quy ước, chủ yếu tấn công vào các vùng đô thị lớn gần biên giới phía bắc và phía tây của Miền Nam Việt Nam. Lực lượng quân sự tấn công chính trong chiến dịch này là các đơn vị bộ đội chính quy Bắc Việt.(24)
Trận Tấn Công Tết là giai đoạn hai của chiến dịch đông-xuân. Lúc này, lực lượng Cộng Sản, được biết như là Quân Giải Phóng, gồm các thành viên từ Miền Nam thuộc Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc (NLF) và cánh quân sự của họ, Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân (PLAF), được biết tại Miền Nam như là Việt Cộng hay Cộng Sản Việt Nam, cũng như các đơn vị của Bộ Đội Bắc Việt (Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, PAVN). Trong thời gian Trận Tấn Công Tết, Cộng Sản thi hành chiến lược hoàn toàn khác với chiến lược đã dùng trong chiến dịch mùa đông. Họ sử dụng cả du kích chiến và tấn công chớp nhoáng các thành phố, các thị xã, và làng mạc trên khắp Miền Nam, gồm Sài Gòn và các trung tâm hành chính tỉnh lớn. Với chiến dịch tấn công quy mô, họ nhắm tới mục đích giành chiến thắng quân sự. Họ hy vọng rằng người dân Miền Nam sẽ ủng hộ họ và nổi dậy chống lại chính quyền Sài Gòn. Nhưng điều đó đã không xảy ra.
Cộng Sản đã thiệt hại nặng nề vì quân đội của họ bị đánh tan tác. Tuy nhiên, ảnh hưởng chính trị của Trận Tấn Công Tết tại Hoa Kỳ đánh dấu một bước ngoặc của quan điểm công chúng chống lại chiến tranh, với người dân Mỹ gia tăng chống đối bất cứ sự liên lụy nào thêm nữa. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson tuyên bố quyềt định không tái tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống kế tiếp vào tháng 11. Trong vòng vài tháng, cuộc tấn công dẫn tới khởi đầu đàm phán giữa người Mỹ và Bắc Việt và đưa tới chấm dứt việc Mỹ ném bom Bắc Việt. Richard Nixon đã thay thế Johnson tại Phòng Bầu Dục và bắt đầu rút khỏi cuộc chiến.
Trận chiến Huế khởi đầu với cuộc tấn công của Cộng Sản trong giờ giao thừa ngày 30 tháng 1 năm 1968. Những người phòng thủ Huế -- phía chống lại Cộng Sản -- gồm Quân Đội Quốc Gia (ARVN hay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) được hậu thuẫn bởi các đơn vị địa phương quân (Địa Phương Quân và Nhân Dân Tự Vệ) và bởi Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân Hoa Kỳ.
Cuộc tấn công của Cộng Sản lúc ban đầu thì mạnh, có tổ chức, và thành công. Vào rạng sáng ngày 1 tháng 2, Cộng Sản đã kiểm soát toàn thành phố ngoại trừ các tổng hành dinh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và khu dinh thự của các cố vấn quân sự Mỹ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ bắt đầu củng cố các vị trí của họ để đương đầu với những đợt tấn công của Cộng Sản.
Cộng Sản dựng lên phòng tuyến chính trong Thành, trung tâm của kinh đô. Cộng Sản cũng chiếm phía tây thành phố, trong khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ kiểm soát ba phía khác. Nỗ lực đầu tiên để chiếm lại Thành từ tay Cộng Sản bằng việc tin cậy vào hỏa lực đã thất bại, vì vậy trong tuần lễ thứ ba của tháng 2, Quân Đội Quốc Gia và Mỹ tiến vào Thành và giao chiến ác liệt với các trận cận chiến, chiếm từng khu phố, từng thước đất, từng nhà.
Ngày 24 tháng 2, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hạ cờ Cộng Sản được cắm trên Thành Huế gần bốn tuần lễ và dương cao lá cờ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 26 tháng 2 năm 1968, bộ đội Cộng Sản đã bị đánh bật ra khỏi Huế bởi Quân Đội Quốc Gia và Mỹ.
Trận chiến Huế là trận khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh thành thị tại Việt Nam. Cộng Sản tổn thất khoảng 5,000 người chỉ trong thành phố; Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tổn thất khoảng 400 người, và 216 người Mỹ bị giết chết trên chiến trường. Khoảng 80% thành phố Huế bị phá hủy, chủ yếu bởi hỏa lực và bom của Mỹ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.(25)
Quân Đội Bắc Việt (NVA) gánh trách nhiệm chính trong cuộc tấn công Huế. Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc (NLF) chịu trách nhiệm tổ chức những vùng được giải phóng, thực hiện các cuộc tuyên truyền, chia khẩu phần thức ăn, bắt thanh niên đi lao động và đánh giặc, và đối phó những người trong dân địa phương mà Mặt Trận xác định là kẻ thù của họ.
Cùng với lực lượng Cộng Sản, nhiều thành viên cũ của Phong Trào Đấu Tranh đã chết, những người đã rời bỏ Huế sau Phong Trào Phật Giáo thất bại vào năm 1966, trở lại thành phố. Quen thuộc với thành phố và dân cư ở đây, họ, như Giải Khăn Sô Cho Huế đã cho thấy, là lực lượng chính đứng đằng sau các vụ hành hình tại Huế. Không chỉ các viên chức chính quyền và quân đội bị thảm sát mà còn có những người dân vô tội, gồm phụ nữ và trẻ em, bị tra tấn hành hạ, giết chết, hay chôn sống.
(còn tiếp)

CHÚ THÍCH

- (23) Nguyễn Văn Minh, Dòng họ Ngô Đình: Ước mơ chưa đạt ( Hoàng Nguyên xuất bản, Garden Grove, CA, 2003), trang 12-13.
- (24) Đối với phân tích cùng thời nhiều tài liệu về phía người Việt trước và trong thời gian trận tấn công, xin xem Victoria Pohle, The Viet Cong in Saigon: Tactics and Objectives during the Tet Offensive [Việt Cộng tại Sài Gòn: Chiến Thuật và Mục Tiêu trong thời gian Trận Tấn Công Tết] (Santa Ana, CA: RAND, Office of the Assistant Secretary of Defense/ International Security Affairs and the Advanced Research Projects Agency, 1969). Có tác phẩm ít nghiên cứu và có tính cách chính trị hơn về trận tấn công giúp bù đắp từng khu vực tại Nam Việt Nam: Pham Van Son và Le Van Duong, xuất bản, The Viet Cong Tet Offensive [Trận Tấn Công Tết của Việt Cộng], 1968 (Saigon [?]: Print and Publications Center, A.G./Joint General Staff, RVNAF [1989?], nói về Trận Chiến Huế, gồm cuộc tàn sát, trang 248-96. Cũng xin xem Lien-Hang T. Nguyen, Hanoi’s War [Chiến Tranh của Hà Nội] (Nxb University of North Carolina Press, Chapel Hill, 2012), trang 87-109, đối với một phân tích về cuộc xung đột chính trị tại Hà Nội trước Trận Tấn Công Tết.
(25) Don Oberdorfer, Tet! The Story of a Battle and Its Historic Aftermath [Tết! Câu Chuyện về một Trận Chiến và Hậu Quả Lịch Sử Của Nó] (Doubleday, New York, 1971), trang 232.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.