Hôm nay,  

40 Năm Sao Mãi Xa Nhau?

13/02/201500:00:00(Xem: 4019)
Câu hỏi hàng đầu trong mỗi người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến sau 40 năm kết thúc chiến tranh ngày 30 tháng 04 năm 1975 là tại sao dân tộc Việt Nam vẫn chia rẽ để đất nước tiếp tục suy yếu trước đe dọa xâm lược của láng giềng Trung Quốc?

Sau đây là những lý do căn cứ vào những việc đã xẩy ra:

Thứ nhất, đảng cầm quyền duy nhất Cộng sản Việt Nam không chịu chia chác quyền lực với ai và không chấp nhận “đa nguyên đa đảng”.
Các Nhà tư tưởng của Đảng tiếp tục lý luận cối chầy rằng: “Tính tất yếu cầm quyền của Đảng ta như là một vấn đề có tính quy luật - quy luật vận động của thời đại và xã hội nước ta, nhu cầu về tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta, trực tiếp là sự phát triển của giai cấp công nhân, của phong trào yêu nước cách mạng và được thể hiện qua hoạt động của Đảng ta trong 85 năm qua.”  (Trích ý kiến từ Hội thảo “Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” tại Qủang Ninh ngày 28/01/2015).

Nhưng “tất yếu” và “quy luật” nào hay toàn chuyện đảng vẽ ra để tự biên tự diễn,  tiếm quyền và khoác vào mình “chiếc áo tình cảm của nhân dân” để xỏ mũi dân kéo đi vì  giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ sau “Cách mạng tháng Tám 1945”  có được  chia cho miếng đỉnh chung nào đâu?
Thứ hai, quyền làm chủ đất nước của dân đã bị tước bỏ để tuyên truyền cho chế độ qua các cuộc bỏ phiếu gỉa tạo “đảng cử dân bầu”, dù vẫn phải nghe tuyên truyền khống rằng “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân”.

Thứ ba, đất nước Độc lập rồi mà Tự do thì không, ngược với lời nguyền “không gì qúy hơn độc lập, tự do” của ông Hồ Chí Minh, người lập ra  đảng CSVN  cách nay 85 năm (03/02/1930 – 03/02/2015).

Thứ tư,  đảng tiếp tục lấy chủ nghĩa phá sản Cộng sản Mác-Lênin và tư tưởng độc tài Hồ Chí Minh  làm kim chỉ nam cho mọi hành động đi ngược lại trào lưu tiến bộ của nhân loại để tiếp tục làm cho dân nghèo, nước mạt.

Thứ năm, quyền lợi của dân bị trắng trợn xâm hại bởi cán bộ, đảng viên mất phẩm chất đã được các cấp có chức có quyền bao che để thỏa mãn quyền lợi phe nhóm tạo thành mạng lưới tham nhũng để  bóc lột nông dân và công nhân – hai lực lượng nồng cốt  đã giúp đảng Cộng sản lên cầm quyền. Những vụ cán bộ bầy mưu chiếm đất, lấy ruộng của dân trong nhiều dự án đô thị, kinh tế, làm đường để bán  lấy tiền bỏ túi và chia chác cho các nhóm lợi ích từ mấy năm qua là nguyên nhân của những vụ khiếu kiện đông người mỗi ngày một  nhiều.

Thứ  sáu, việc đảng tiếp tục độc quyền kiểm soát và điều hành nền kinh tế quốc gia dựa trên lý thuyết viển vông “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà thực chất chỉ  làm thuê cho nước ngòai đã đưa kinh tế  lệ thuộc vào Trung Quốc là chính.

Bằng chứng từ các thống kê chính thức của Việt Nam cho thấy hàng hoá nhập siêu từ Trung Quốc đã  lên đến 23,7 tỉ USD.

Báo Thanh Niên ngày 14/05/2014 viết : “Điều đáng nói là, với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc về gia công và xuất khẩu, chúng ta thực ra đang xuất khẩu giùm nước này và phần giá trị gia tăng được hưởng rất ít ỏi. Theo Tổng cục Hải quan, cả năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 17,95 tỉ USD hàng dệt may, nhưng phải nhập tới 14,81 tỉ USD, trong đó nhập khẩu của Trung Quốc 5,56 tỉ USD. Công thức là, Việt Nam nhập nguyên liệu của Trung Quốc về gia công và xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU ( European Union -Liên hiệp Châu Âu). Ở hoàn cảnh tương tự là điện thoại các loại và linh kiện, Việt Nam xuất được 21,24 tỉ USD cả năm 2013 nhưng phải nhập khẩu 8 tỉ USD, riêng Trung Quốc gần 5,7 tỉ USD...

Không chỉ bán hàng hộ, chúng ta còn tiêu thụ công nghệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc. Năm 2013, Việt Nam nhập từ Trung Quốc tới 36,8 tỉ USD, chiếm tới 28% tổng kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, máy móc, phụ tùng, nguyên vật liệu… Riêng 3 tháng đầu năm, nhóm hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng trị giá là 1,58 tỉ USD, tăng 29,7%.”

Đó là lý do tại sao nhà nước cứ “tái cơ cấu” mãi mà kinh tế vẫn lệ thuộc vào nước ngòai.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nhìn nhận: “Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư, sử dụng nhiều tài nguyên và lao động với năng suất, chất lượng thấp… ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Lĩnh vực đầu tư công nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, cơ sở hạ tầng mặc dù đã khá lên hơn rất nhiều nhưng vẫn còn kém so với các nước tiên tiến trong khu vực.

Sức cạnh tranh của Việt Nam sẽ khó cải thiện nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng tỷ trọng gia công lớn trong nền kinh tế, sử dụng công nghệ trung bình và thấp, lao động không lành nghề và năng suất thấp… và không nhanh chóng đổi mới mô hình tăng trưởng.
Cũng cần nhấn mạnh đến những khó khăn trước mắt của ta trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như nợ xấu, nợ công cao, bội chi lớn ngân sách nhà nước còn lớn, các nhà sản xuất kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn…, trong phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, những hạn chế trong quản lý nhà nước của các cơ quan Trung ương và địa phương…”

(Phỏng vấn của TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam)/03/02/2015)

Vì vậy đến cuối năm 2014, tính bình quân mỗi người  dân Việt Nam trong dân  số trên 91 triệu người  phải gánh nợ trên 937 Dollars.
Nợ xấu là món tiền vay Ngân hàng không trả nổi của các cơ sở thương mại và xí nghiệp, trong đó  đáng kể là  các Doanh nghiệp Nhà nước.  Tính đến cuối năm 2014, nợ xấu của  Việt Nam được ước tính là 240.000 tỷ đồng,.

Do đó khi nền kinh tế do Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai chủ qủan và Chính phủ qủan lý xấu như thế thì dân đen phải lao động muôn năm cho tham nhũng xơi  và  tình trạng giầu nghèo giữa thành phố và nông thôn càng căng ra và sâu thêm.

Vậy nợ xấu ở đâu mọc ra? Báo Diễn đàn Đầu tư đã dựa vào lời một chuyên gia không nêu tên nói rằng : “ Bản chất của nợ xấu ở các ngân hàng Việt Nam được chia thành 3 nhóm: nợ doanh nghiệp Nhà nước, nợ liên quan đến bất động sản và nợ liên quan đến lợi ích nhóm. Trong 3 nhóm này đều có nợ xấu liên quan đến sở hữu chéo, bởi vậy, các ngân hàng không dám đưa ra phán quyết đối với những công ty con của mình, lợi ích nhóm. Do vậy, các ngân hàng không muốn xử lý vì điều đó có khác gì tự chặt chân, chặt tay của mình.”

“Để giải quyết được nợ xấu cần phải công khai, nếu không, giải pháp VAMC (Công ty Quản lý và Khai thác Tài sản Việt Nam)  cũng không thể giải quyết được nợ xấu, mà chỉ chữa được những bệnh thời tiết, vì mầm mống gây bệnh nợ xấu vẫn tồn tại trong cơ thể của nền kinh tế” (báo Diễn đàn Đầu tư, 20/10/2014)

Vậy ai, nếu không phải là ông Nhà nước, chủ nhân của Doanh nghiệp Nhà nước, đã đốt tiền của dân vào những canh bạc đầu tư lấy lời để chia nhau, đến khi thua lỗ thì lại  ì ra  với chiêu bài “cha chung không ai khóc”. Cuối cùng chỉ còn lại dân đen phải è cổ ra lao động để  cho đảng tiếp tục nuôi các nhóm lợi ích!

Như vậy thì làm sao mà dân còn kiên nhẫn để liên kết “máu thịt với đảng” như cán bộ Tuyên giáo vẫn khoe khoang?

Thứ bẩy, đảng tiếp tục độc quyền ngôn luận, báo chí  để phục vụ đặc quyền, đặc lợi cho đảng và dùng Công an và côn đồ đàn áp, không chế, bỏ tù những người dân bất  đồng chính kiến, đòi tự do dân chủ và đòi quyền con người.

Thứ tám, khi đạo đức của đảng viên  đã  sa sút đến tận đáy của xã hội và những kẻ tham nhũng cứ sống phây phây trước  mắt dân như hiện nay thì công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng làm theo Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”  có còn giá trị gì không?
Thứ chín , dân càng ngày càng nghi ngờ khả năng bảo vệ vẹn tòan lãnh thổ và chủ quyến quốc gia của đảng sau khi đã dành đặc quyền đặc lợi tại nhiều vùng kinh tế chiến lược  cho Trung Quốc và còn bất lực trước kế họach lấn chiếm biển đảo và lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.

Thứ mười, đảng đã vô ơn bạc nghĩa với 74 chiến sỹ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là công dân nước Việt, đã bỏ mình trong cuộc chiến chống Quân Trung Quốc xâm lược chiếm đóng Quần đảo Hòang Sa năm 1975. Sao lãng tưởng niệm 64 người lính CSVN đã bỏ mình trong trận chống quân Tầu xâm lược chiếm đảo ở Trường Sa năm 1988. Và đặc biệt còn tuân theo lệnh Trung Quốc cấm không cho dân-quân tưởng niệm trên 40,000 chiến sỹ và đồng bào của 6 tỉnh dọc biên giới Việt-Trung đã hy sinh trong 2 cuộc chiến xâm lăng của 600,000 quân Trung Quốc từ 1979 đến 1989.

Từ năm 2011 đến 2013, đảng còn cho Công an đàn áp trí thức và một bộ nhân dân biểu tình tưởng niệm những người đã hy sinh trong các cuộc chiến chống quân Trung Quốc và lên án Bắc Kinh xâm lược tại Sài Gòn và Hà Nội, tiêu biều tại Tượng Đức Trần Hưng Đạo bên bờ sống Sài Gòn và tại Công viên Tượng đài Lý Thái Tổ ờ Hà Nội.

KỲ THỊ NAM-BẮC THẮNG - THUA

Bên cạnh 10 nguyên nhân là mầm mống chia rẽ trong dân kể trên, đảng còn nuôi khuyết tật kỳ thị Nam-Bắc và tiếp tục  phân biệt giữa kẻ thắng và người thua sau 30 năm theo cuộc chiến nồi da xáo thịt do Đảng Cộng sản chủ động.  Dù đảng đã phủ nhận và tiếp tục che đậy nhưng chúng vẫn thường xuyên là một bi kịch của xã hội trong suốt 40 năm qua.

Bằng chứng là Mặt trận Giải Phóng miền Nam hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, dù do đảng dựng lên nhưng số cán bộ lão thành gốc Nam    vẫn là nòng cốt, đã bị giải tán không kèn không trống sau ngày thống nhất đất nước 1976.
Sau đó đến số phận của Câu lạc bộ Kháng chiến (tên nguyên thủy là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ) , dù chỉ nhằm hoạt động “tương tế ái hữu” cũng bị đình chỉ hoạt động vào tháng 03 năm 1989 bởi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người được coi là “khởi xuớng phong trào Cởi Mở” từ năm 1986.

Ông Linh lo sợ Câu lạc bộ sẽ biến thành một đảng đối lập chính trị vì chỉ sau 2 năm hoạt động số hội viên đã vượt lên 20.000, trong số này  có  những đảng viên nổi tiếng như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Nam Trung.
Một số  sáng lập viên như các ông  Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Nguyên Phong Hồ Hiếu  sau đó đã bị cô lập, bị bắt giam hay sa thải khỏi đảng.

Đối với hàng ngũ Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa thì đảng đã lừa dối hàng trăm ngàn người để bắt tập trung vào các trại giam lao động từ Nam ra Bắc sau ngày 30/04/1975. Nhiều người đã chết trong tù, tiêu biểu và nổi tiếng như nguyên Thủ tướng Phan Huy Qúat, nguyên Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên và Thi sỹ Vũ Hòang Chương.

Ngọai trừ những người trốn được ra nước ngòai hay đủ điều kiện được định cư ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, những người phải ở lại miền Nam, đặc biệt là những cựu thương binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ đã bị kỳ thị không cho học hành đến nơi đến chốn, không cho công ăn việc làm dù khả năng vượt cao hơn con cán bộ, đảng viên.

Nhiều người còn không có sổ Hộ khẩu để  được sống hợp pháp và không được chữa trị khi lâm bệnh.

Thậm chí đảng còn kỳ thị cả với những chiến sỹ VNCH đã yên nghỉ tại các Nghĩa Trang Quân đội, không tôn trọng vong linh của họ mà còn gây khó khăn cho việc thăm viếng, tu bổ, bảo trì các ngôi mộ này.

Vậy mà đảng và nhà nước vẫn oang oang tuyên truyền cho  Nghị quyết  36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Nghị quyết viết  “ Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, nhưng hành động thì chỉ muốn người Việt ra đi quay đầu về “hòa hợp” vào guồng máy cai trị của đảng và làm việc theo mệnh lệnh của Nhà nước.


Nghị quyết cũng hô hào mọi người hãy : “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.” Rồi hứa hẹn : “ Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Nhưng sau 10 năm thi hành (2004-2014), đảng đã thất bại nặng nề vì “lời nói không đi đôi với việc làm”. Đảng không ngừng gửi cán bộ với nhiều dạng thức khác nhau ra nước ngòai để móc nối, mua chuộc,  len lỏi phá họai và thao túng các Tổ chức xã hội và chính trị của người Việt ở nước ngòai.

Từ năm 2010, Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngòai (NVNONN), thời Thứ trường Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn làm Chủ nhiệm đã thi hành kế họach : Chiêu dụ 300,000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” (nay đã tăng lên 400,000 người) về giúp nước; Tổ chức các Tổ hoạt động tại các Cộng đồng lớn của người Việt; Tổ chức các lớp dạy Việt ngữ và văn hóa Việt với thầy cô giáo gửi ra từ trong nước; Thành lập Hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngòai; Đem sách báo, lập Đài Phát thanh-Đài Truyền hình để tuyên truyền cho đảng; Tổ chức du lịch cho Kiều báo và Tổ chức các trại Hè cho Thanh thiếu niên Việt kiều về thăm Quế hương, thăm các Di tích lịch sử Cộng sản và thăm các đơn vị quân đội ở Trường Sa, v.v…

Tuy nhiên kết qủa là con số không, hay chỉ đem lại kết qủa rất hạn chế vì cán bộ và lãnh đạo nhà nước còn duy trì nhiều mặc cảm với những người đã bỏ nước ra đi. Điển hình như số Trí thức, chuyên viên người Việt về giúp nước chỉ đếm tr6en đầu ngón tay.

Đảng cũng thất bại không mua chuộc được Thế hệ người Việt thứ hai và thứ ba ở nước ngoài vì thiếu thành thật và vẫn dựa vào  tiêu chí “đảng viên” để lãnh đạo những Trí thức hải ngoại có trình độc học hàm và chuyên môn giỏi hơn mình cả chục lần.

Đã thế, còn nuôi dưỡng ấu trĩ “nghi ngờ” để “bảo mật quốc gia” để che đậy những thông tin ai cũng biết cả rồi !

NÓI HÒA GIẢI NUÔI HẬN THÙ

Vì vậy, cũng chính ông Nguyễn Thanh Sơn đã có những lời nói chỉ để chọc giận và gây chia rẽ dân tộc trong-ngòai trong suốt nhiệm kỳ của ông đến ngày đi làm Đại sứ ở Nga năm 2014.

Trong cuộc phỏng vấn của báo Quân đội Nhân dân ngày 12/09/2011, ông Sơn nói: “Các cơ quan đại diện  (của Chính phủ ở nước ngòai) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động cộng đồng với vận động chính quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá đất nước.”

“…Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và  chính vị thế và uy tín của họ đang bị giảm sút.

Không có lý gì mà chúng ta không giành thế chủ động, chìa bàn tay với những người còn hiểu lầm về đất nước, còn mơ hồ về việc họ có thể lật đổ chế độ chúng ta. Chúng tôi đã quyết định có đoàn liên ngành cùng với các cơ quan báo chí trong nước đi công khai, gặp gỡ những phần tử còn chống đối quyết liệt nhất, cố tình không hiểu tình hình trong nước. Chúng tôi đã nêu công khai với Đại sứ quán Mỹ, thông qua cơ quan đại diện Ngoại giao ở các quốc gia như Mỹ, Canada... để có thông tin đến các tổ chức, cá nhân này. Họ rất bất ngờ trước kế hoạch này và lúng túng, cố tình không gặp.

Khi nào họ thực sự muốn gặp công khai như họ nói (nhưng thực ra khi yêu cầu gặp công khai họ lại không dám gặp), thì chúng tôi sẽ sẵn sàng gặp. Chúng tôi đang muốn gặp họ công khai với sự chứng kiến của phóng viên trong và ngoài nước, bà con kiều bào để tìm hiểu xem vì sao họ còn hận thù với đất nước. Và cũng để họ hiểu rõ rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn mở rộng vòng tay đối với họ, nếu họ thực sự muốn hướng về Tổ quốc, mang lại lợi ích cho cộng đồng và cho đất nước.”

Do đó khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Mỹ và họp tại Tòa Bạch ốc với Tổng thống Barack Obama ngày 25/07/2013 thì hàng trăm đồng bào người Việt đã biểu tình bên ngoài lên án CSVN và kêu gọi Tổng thống Obama thảo luận và áp lực ông Sang thả tù nhân chính trị và tôn trọng nhân quyền.

Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phản ứng : “Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số qúy vị, các bác, các anh các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc… Tôi nghĩ  rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các qúy vị, các bác, các anh các chị còn cố tình  giữ trong lòng  mình một cái “chút hận thù cuối cùng”. (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV)

Viên chức ngọai giao mang nhiều mặc cảm vì đã bị nhiều người Việt ở Hoa Kỳ tứ chối tiếp xúc trong các lần công tác trước nói tiếp : “Qúy vị không có lý gì  các vị “đứng  ở ngang giữa đường các  vị ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ làm cho các  qúy vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thâm những người bạn Mỹ của chúng ta lại trách qúy vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong muốn….

“….Tôi cho là các bác, các anh chị --“những người đang còn có những tư tưởng như vậy hãy hết sức  tĩnh tâm suy nghĩ lại để chúng ta xóa bỏ tất cả những cái hận thù ...còn có những cái suy nghĩ cực đoan chống lại đất nước hoặc là có một cái suy nghĩ lệch lạc thì đó thực sự nó chỉ là ảo tưởng…. hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy gác lại những cái suy nghĩ cá nhân “.
Cuối cùng, ông Sơn bị đặt mà không biết mình đã nói láo vu cáo người đi biểu tình được trả tiền : ““Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của  bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước  vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy.   Có những người chì vì đồng tiền,có những người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ qúy vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.”  

TRÍ THỨC VIỆT KIÊU QUAY MẶT

Nhưng tại sao Trí thức Việt Kiều đã không chịu về giúp nước thì

Giáo sư  Nguyễn Quốc Vọng thuộc Đại học danh tiếng Kỹ thuật và Thiết kế RMIT của Úc Đại Lợi giải thích trong một bài viết : “ Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:

- Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;

- Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên...) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;

- Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong  hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hơp nhất và có lợi nhất cho đất nước;

- Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;

- Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;

- Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học kỹ thuật của mình.  

Giáo sư  Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010 : “Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”

Theo tổ chức ngọai vi của đảng CSVN là Mặt trận Tổ Quốc thì đến năm 2015, trên tòan Thế giới có : “4,5 triệu người sống và làm việc ở 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hằng năm có khoảng 500.000 lượt kiều bào về nước, trong đó khoảng hơn 300 chuyên gia, trí thức về làm việc và hàng nghìn người về tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh.”

Tuy nhiên bản tin ngày  27/09/2014 của tổ chức này không cho biết 300 trí thức là những ai và họ đã làm gì ờ Việt Nam, nhưng có điều chắc chắc  là “ rất ít người  muốn trở về sống và làm việc cho đảng CSVN”.

Ngày cả số người Việt gìa ở nước ngoài về nước sống cho hết đời cũng rất ít oi, dù Mặt trận khoe : “Hiện có trên 3.500 doanh nghiệp trong nước do kiều bào thành lập hoặc góp vốn của kiều bào với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, Năm 2009 là  6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.”

Theo số thống kê ở Việt Nam thì phần lớn đầu tư của người Việt nhằm vào Du lịch và ngành Địa ốc.

Như vậy đủ biết cũng đã có sự dè dặt làm ăn với Việt Nam từ phiá các thương gia người Việt ở nước ngoài. Và tất nhiên, một sự quay về để bị  kiểm soát và cai trị bởi chế độ Cộng sản vẫn còn xa vời đối với ước mơ “vắt được chanh thì bỏ vỏ” mà đảng đã nhắm vào khối người Việt Nam ở nước ngoài từ nhiều năm qua.

Đấy là nguyên do tại sao đã sau 40 năm kết thúc chiến tranh và qua 40 cái Tết mà người Việt Nam ở đôi bờ chiến tuyến vẫn còn xa mặt cách lòng, dù đang sống bên cạnh nhau ở trong nước.

Sự nghi ngờ và thờ ơ của đảng CSVN đối với sự quay về Việt Nam của nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Nhạc sỹ Phạm Duy là một bằng chứng cho đến ngày hai ông qua đời (Ông Kỳ qua đời ngày 23/07/2011 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Nhạc sỹ Phạm Duy mất ngày 27/01/2013 tại Sài Gòn).

Lỗi ấy tại ai nếu không phải là vì đảng CSVN vẫn tiếp tục nói một đàng làm một nẻo và  chưa  muốn hỏa giải với đồng bào trong nước, vẫn nuôi dưỡng chính sách kỳ thị địa phương Nam-Bắc, vùng miền lãnh thổ và tiếp tục độc quyền cai trị để bảo vệ quyền lợi cho một thiêu số lãnh đạo, nhưng lại  sẵn sàng thỏa hiệp chủ quyền lãnh thổ với ngoại bang Trung Quốc để được yên thân. -/-

Phạm Trần (02/015)

Ý kiến bạn đọc
13/02/201516:44:46
Khách
Khi nhìn thấy tựa đề bài viết này thì tôi không hiểu người viết có hiểu là ông ta đã đánh đồng nhà cầm quyền công sản và dân chúng VN là một. Tôi không thấy dân Việt nam hai miền trong 40 năm qua có gì chia cách đâu như trong phần mở đầu của tác giả. Đến khi đọc phần dưới thì mới biết đại dân chúng của bên kia là đảng cộng sản chứ không phải dân miền Bắc. Bởi vì những gì tác giả chứng minh là nhà cầm quyền hiện nay làm chứ không phải dân chúng bên kia như tựa đề và phần mở đầu.
Công sản VN không muốn gì hơn là chúng ta đánh đòng chúng với dân chúng VN bên này hay bên kia. Tự nhiên chúng ta đánh mất chính nghĩa trong việc chống cộng. Chính các anh cũng công nhận đảbg công sản là nhân dân mà. Các anh không hoà hợp hòa giải với đảng cộng sản là không hòa hợp giải với nhân dân. Đó luân điệu của công sản. Đừng mong gì công sản VN chống tàu vì nhờ tàu mà họ giữ vững địa vị.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.