Hôm nay,  

Tại sao Mỹ nên bỏ ASEAN qua một bên trong vấn đề Biển Đông

13/03/201500:01:00(Xem: 6082)

CHỐNG TÀU DIỆT VIỆT CỘNG

Bản tin số 61— Ngày 13 tháng 03 năm 2015 

 

Tại sao Mỹ nên bỏ ASEAN qua một bên trong vấn đề Biển Đông

 

The Heritage Foundation

Tác giả: Walter Lohman

Người dịch: Trần Văn Minh

Ngày 13-03-2015

Tại phiên điều trần của Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ vào cuối tháng Hai, Chủ tịch mới của ủy ban, ông John McCain đã hỏi Giám đốc tình báo James Clapper về những gì ông gọi là các hình ảnh vệ tinh "đầy kịch tính" phô bày công trình xây dựng của Trung Cộng tại quần đảo Trường Sa đang tranh chấp tại Biển Đông. Ông Clapper, trong khi đáp lại, thừa nhận có vấn đề về việc Trung Cộng "tích cực" theo đuổi các "đòi hỏi chủ quyền quá đáng". Ông cũng mô tả mối quan ngại trong khu vực là một "điều tốt bởi vì, cuối cùng, các nước trong khu vực chỉ có thể có sức mạnh nếu họ hành động tập thể".

Ông Clapper chỉ phản ảnh sự khôn ngoan thông thường của một vài năm trở lại đây. Phần lớn Washington, bao gồm các viên chức chủ chốt trong chính quyền Obama, đã ủng hộ phương cách tiếp cận ngoại giao cho cuộc khủng hoảng ở Biển Đông dựa vào các tiến trình khu vực. Đây không phải là không hợp lý. Lý tưởng nhất, khu vực Đông Nam Á sẽ "hành động chung" để giới hạn tranh chấp, và Mỹ có thể nhảy vào ở phía sau để phụ giúp.

Vấn đề là phương tiện truyền thống của Đông Nam Á cho hành động tập thể, là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đã chứng tỏ không thích hợp cho việc tìm kiếm một giải pháp. Những hình ảnh về sự bồi đắp đảo đầy tham vọng của Trung Cộng - và các dấu chỉ về ý hướng sử dụng bạo lực của Trung Cộng để xác định tuyên bố chủ quyền - chỉ là những bằng chứng gần đây nhất.

Tới lúc để nghĩ lại

 

Đây là thời điểm cho Washington đi tìm hướng đi mới để giải quyết vấn đề. Hoa Kỳ có các lợi ích quan trọng đang bị đe dọa, bao gồm sự đi lại của hải quân qua các tuyến đường biển cần thiết để gìn giữ hòa bình ở eo biển Đài Loan và Đông Bắc Á Châu; sự giao thông an toàn, lâu dài, không bị ngăn trở của thương mại đường biển; và an ninh của Philippines, một đồng minh có hiệp ước với Mỹ. Tổ chức ASEAN cũng quan tâm đến những điều này. Tuy nhiên sự thống nhất của tổ chức lại là ưu tiên cao hơn. Đến mức mà những chuyện liên quan tới lợi ích của Mỹ - là điều thách thức khái niệm về quyền hạn trong vùng biển quốc tế của Trung Cộng, chẳng hạn - đe dọa sự thống nhất của ASEAN, ASEAN lùi vào thế bất động. Kết quả là, sự chia rẽ của ASEAN đã dẫn đến nhiều thập niên ngoại giao thất bại trong vùng Biển Đông.

Năm 1992, các ngoại trưởng ASEAN lần đầu tiên tuyên bố mục tiêu thành lập một “quy tắc hành xử quốc tế ở Biển Đông." Hai mươi năm sau, các cuộc đàm phán của họ với Trung Cộng dẫn đến không phải một quy tắc ràng buộc, nhưng một "tuyên bố ứng xử". ASEAN đã đánh mất mục tiêu. Họ đã bỏ lỡ cơ hội một lần nữa vào năm 2011, khi chín năm hội họp sản xuất ra một bộ các chỉ dẫn mỏng manh với 274 chữ để thực hiện bản tuyên bố - một lần nữa, không phải là một quy tắc.

Rằng tất cả các hoạt động ngoại giao của ASEAN trong những năm qua là "chuyển động mà không có động tác" đã được chứng thực tại sự sụp đổ thượng tầng về đề tài tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Campuchia vào năm 2012. Tượng trưng cho những khó khăn khi làm việc với ASEAN, sự thất bại năm đó của ASEAN trong việc đưa ra một tuyên bố chung tổng kết các cuộc họp mùa hè của các ngoại trưởng, tranh tiếng với một câu chuyện từ thời điểm. Chuyện này xoay quanh cuộc ngoại giao con thoi của Ngoại trưởng Indonesia lúc đó là Marty Natalegawa, người sửa chữa các thiệt hại. Ông đã làm như vậy, không phải bằng cách giải quyết hiệu quả các tranh chấp, nhưng bằng cách đạt được sự đồng ý của các ngoại trưởng đối với một tuyên bố vô hại về lập trường trước thời kỳ bế tắc - bao gồm thêm một điều khoản nữa trong "việc kết thúc sớm một bộ quy tắc ứng xử khu vực ở Biển Đông".

Sau đó, vào tháng Chín năm 2013, ASEAN hoan nghênh những gì họ nêu rõ là "tham vấn chính thức đầu tiên" với Trung Cộng về quy tắc ứng xử - như là hơn 20 năm thảo luận trước đây phải là cái gì khác hơn là tham vấn chính thức. Trong thực tế, hai loại "tham vấn" có trước bước đột phá được dự trù này nhiều năm. Tháng Mười năm ngoái, một cuộc họp trong tiến trình này đi đến kết luận đáng kinh ngạc rằng "tiến trình tham vấn giữa ASEAN và Trung Cộng cũng quan trọng như bản chất [của] chính COC (Quy tắc ứng xử)".

Sự chia rẽ trong ASEAN không chỉ là giữa bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và bên không có tuyên bố. Trong cả hai phe đều có các thành viên kỳ cựu, như Singapore, Indonesia và Malaysia, là những nước quan ngại về khả năng tồn tại lâu dài của ASEAN hơn tranh chấp lãnh thổ với Trung Cộng. Ngoài ra còn có một nhóm các thành viên mới hơn, như Campuchia, có một sự hiểu biết rất nông cạn về giá trị chiến lược của ASEAN, là nước đang cố gắng để vượt lên trên lợi ích tài chính trực tiếp. Các thành viên cũng chia rẽ trong nội bộ.

Việt Nam liên tục thay đổi giữa đối đầu với Trung Cộng trong các tuyên bố chủ quyền và ve vãn Trung Cộng. Ngay cả ở Philippines, là nước có động thái đối đầu nhiều nhất trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chính sách đối ngoại tôn trọng sâu sắc đối với sứ mệnh lịch sử của ASEAN trong việc bảo đảm quyền tự chủ của khu vực.

Sự hỗn hợp lợi ích này tạo ra một sự đồng thuận thiên về tiến trình hơn là kết quả. Thật vậy, đối với các thành viên thâm niên hơn như Thái Lan, là nước tổ chức các cuộc đàm phán tháng mười, tiến trình là kết quả, bởi vì họ - cũng như Trung Cộng – thấy việc kéo dài vấn đề ra vô thời hạn là một kết quả chấp nhận được. Đó không phải là một kết quả chấp nhận được đối với Hoa Kỳ.

Những bước kế tiếp

 

Vậy cần phải làm gì?

Đầu tiên, Mỹ đừng hy vọng vào vai trò trung tâm của ASEAN trong việc quản lý các vấn đề. Tổng thống Mỹ và các thành viên nội các của ông nên tiếp tục tham dự các cuộc họp của ASEAN và đưa ra vấn đề Biển Đông khi thấy phù hợp. Nhưng sự tham dự vào các cuộc họp này nên được xem như là một phương thức dự phòng, trong trường hợp ASEAN bất thường ra tay hành động mà không có sự can dự của Mỹ, chứ không phải là một tiền đề ngoại giao cần thiết cho hành động hiệu quả.

Thứ nhì, các tranh chấp nên được "quốc tế hóa". Có nghĩa là, trọng điểm của hoạt động ngoại giao nên được dời ra khỏi khu vực Đông Nam Á và mối quan hệ của ASEAN với Trung Cộng. Như đã xảy ra với cuộc chiến ở Campuchia năm 1978-1991, và một lần nữa với cuộc khủng hoảng Đông Timor vào năm 1999, chỉ có sự tham gia mạnh mẽ của các cường quốc bên ngoài ASEAN mới có thể cung cấp trọng lượng cần thiết để thay đổi các tính toán của các nước trong cuộc. Trong trường hợp của Biển Đông, Mỹ và các đối tác quan trọng nên bắt đầu một hội nghị quốc tế bao gồm Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, chủ tịch của ASEAN (hiện tại là Malaysia), và các bên trong tranh chấp lãnh thổ . Có thể là, như đã xảy ra với việc quốc tế hóa xung đột Campuchia trước đó, một số nước có thể chọn không tham gia. Không cần phải có tất cả trong số họ để hội nghị có thể tạo nên đòn bẩy hiệu quả.

Thứ ba, Mỹ nên xem xét thay đổi vị trí không can dự của mình trong tranh chấp lãnh thổ. Mỹ từ lâu đã cho rằng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông không nằm trong điều khoản của hiệp ước an ninh với Philippines. Mỹ có thể chuyển sang lập trường tương tự như hiệp ước liên quan đến Nhật Bản và quần đảo Senkaku: Đối với các mục đích của hiệp ước an ninh, Mỹ có thể thừa nhận các thực thể biển trong vùng Biển Đông đang do Philippines chiếm đóng như "nằm dưới thẩm quyền của mình" (lời lẽ từ hiệp ước 1951) và do đó được bảo vệ. Hành động làm rõ thẩm quyền như vậy sẽ được kèm theo với tất cả các phản đối pháp lý liên quan đến tham vấn và quy trình lập pháp áp dụng cho hiệp ước một cách tổng quát và phòng ngừa Mỹ bị lôi kéo vào cuộc xung đột ngoài ý muốn.

Mỹ có thể cung cấp sự bảo đảm tương tự cho Đài Loan - phù hợp với các nghĩa vụ pháp lý, trong mọi mặt – dưới Đạo luật Quan hệ Đài Loan. Như với quần đảo Senkaku, Mỹ không cần phải thể hiện lập trường trong phán quyết cuối cùng về chủ quyền ở cả hai trường hợp này, nhường lại vấn đề đó cho ngoại giao trong tương lai.

Thứ tư, Hoa Kỳ có thể tham khảo với Philippines và Đài Loan về triển vọng giúp củng cố các thực thể biển, hoặc lãnh thổ trong khu vực tranh chấp mà họ hiện đang nắm giữ.

Như đã được thảo luận trong Ủy ban Quân vụ Thượng viện, việc bồi đắp đảo và xây dựng của Trung Cộng ở Biển Đông rất xa bờ biển của họ thực sự là "nghiêm trọng". Sự kiện này nên là động lực để đẩy Mỹ ra khỏi cách tiếp cận ngoại giao lấy ASEAN làm trung tâm để giải quyết vấn đề. Quyền lợi của Mỹ quá lớn không thể để lệ thuộc vào một ASEAN chia rẽ và không hiệu quả để cung cấp bất kỳ nền tảng quản lý hòa bình, hiệu quả nào.

Về tác giả: Walter Lohman là giám đốc của Trung tâm nghiên cứu Á Châu của Heritage Foundation.
.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.