Hôm nay,  

Hình Ảnh Tượng Trưng Trong Thơ Sơn Cư (HT Thích Tịnh Từ)

27/06/201500:00:00(Xem: 5959)
Nhà thơ cảm nhận về thiên nhiên khác với người bình thường.. Nhà thơ không nhìn mặt trời như người nông dân, như người thủy thủ, như người công nhân … Mặc dù ai cũng có năm giác quan tiếp nhận ngoại cảnh và ý thức tiếp nhận hình ảnh ký ức, nhưng trí tưởng tượng của nhà thơ phong phú hơn, thường biến ngoại cảnh theo xúc cảm sâu xa thành một thế giới nửa mộng nửa thực với sự sử dụng ngôn ngữ khéo léo.

Mặt trời, mặt trăng, tiếng chim hót ngoài vườn, mùi hoa lan ngào ngạt, làn gió lạnh hay man mát, vị chua của một trái chanh, hình ảnh một thiếu nữ, một hài nhi đối với nhà thơ đều hiện ra như một tượng trưng cho một ý tưởng, một cảm tình, còn đối với người bình thường chỉ có ý nghĩa thực dụng.

Thí dụ, đối với người thợ săn, con nai là một con mồi sẵn sàng nhận một mũi tên, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư nhìn con nai như một trẻ thơ hồn nhiên.

Em không nghe rừng thu
Lá thu nghe xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Dạp trên lá vàng khô

Đối với người nông dân, mưa có ích để mùa màng tươi tốt, nhưng với nhà thơ thì “trời mưa, cơn mưa” tượng trưng cho một nỗi buồn “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ, dài tay em ấy thuở mắt xanh xao” hay là “Chiều này còn mưa sao em không lại? nhớ mãi trong cơn đau vùi… Đối với người thủy thủ, biển là phương tiện cho tàu di chuyển, nhưng nhà thơ lại biến biển thành tượng trưng cho một nỗi buồn vô biên vô tận “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về, triều sương ướt đẫm cơn mê”..(Trịnh Công Sơn )

Đối với nhà khoa học không gian, mặt trăng là một đối tượng chinh phục cho phi thuyền phóng lên nghiên cứu, nhưng với nhà thơ, mặt trăng muôn đời vẫn tượng trưng cho một cái gì đẹp mơ hồ nhưng trong trắng trinh nguyên, như thi sĩ Tản Đà viết “Đêm nay dẹp lắm chị Hằng ơi, trần thế em nay chán nửa rồi”, hay như thi sĩ Huy Cận “ Vầng trăng từ thuở lên ngôi, năm năm tháng tháng em ngồi quay tơ, em ngồi quay tơ”.

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ chập chờn giữa mộng và thực. Nhưng thường thì thơ đời diễn tả những tình cảm buồn gây ra do những cành đời chia ly, ngang trái vô thường làm tan nát những mộng tưởng vàng son, nhất là trong tình trường. Nhửng đổ vỡ trong tình yêu nam nữ thường là đề tài vô tận của thi ca.

Như thi sĩ Tản Đà viết “Trận gió thu phong rụng lá vàng---Lá bên hàng xóm lá bay sang---Vàng bay mấy lá năm già nửa----Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng” Như thi sĩ Hàn Mặc Tử viết “người đi một nửa hồn tôi chết--- một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Hay như thi sĩ Đinh Hùng “Trời cuối thu rồi em ở đâu--- Nằm trong đáy mộ chắc em sầu”. Thi sĩ Nguyễn Đình Toàn: “Ngày thần tiên em bước lên ngồi, đã nghe son vàng tả tơi “.. “Thân tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, thành tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường…”

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ tượng trưng, nhưng thơ đời thường khác với thơ thiền ở chỗ những hình ảnh tượng trưng trong thơ thiền mang ý nghĩa cao cả vượt lên trên những tình cảm trần thế.

Thí dụ, từ “EM trong thơ đời thường dùng để chỉ một người nữ yêu dấu của một người nam, hay để chỉ một người dễ mến,ít tuổi hơn, nhưng trong thơ Sơn Cư ta thấy xuất hiện nhiều lần chữ “EM” mà được dùng để tượng trưng cho một ý tưởng hay một khái niệm cao xa, thâm sâu nhưng không ở ngoài hay ở trên mình, mà thân thiết ở ngay trong mình.

Hãy đọc bài thơ “Người đã đến”
Em đã đến, từ lâu em đã đến
Dáng hình xưa, như vẫn dáng hình xưa
Đôi mắt Em. đẹp hơn làn thu thủy
Ánh trăng đầy trên những chuyến thuyền không

Chữ “EM” tượng trưng cho Phật Tánh hay Tánh Giác vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh từ muôn thuở, nhưng cuộc đời lưu chuyển đã làm chúng sinh xa dần bản lai diện mục của mình. “Nước tràn về loài thủy ngư mở hội” tượng trưng cho dòng đời truân chuyên đầy khổ đau. “Ánh trăng” tượng trưng Chân Tâm sáng ngời nhưng bị che mờ bởi dục vọng, chỉ tròn dầy khi tâm không còn vướng mắc vào trần lao.

Chỉ trong những phút giây hiếm hoi trong đời tỉnh thức đưa chúng sinh gặp lại Tánh Giác nguyên thủy. Giữa Tánh Giác uyên nguyên và ý thức đời thường vẫn có một dòng sông, một cây câu ngăn cách

Mẹ về bên ấy Em ngồi bến cũ
Bến cũ ngàn xưa vẫn một nhịp cầu
Em và tôi còn đôi khi gặp gỡ
Giang đầu cuối xóm chỉ một bờ đê

“Bờ đê”, “nhịp cầu” tượng trưng một ngăn trở, một chướng ngại khiến tâm chúng sinh không trở về được Bổn Tánh của mình. Cái chân tâm, tánh giác sáng ngời từ nguyên thủy chẳng bao giờ tan rã mặc cho bao hình tướng cứ sinh trụ hoại diệt

Bản thân Em hằng hữu và bất sinh

Trong bài thơ “Liên Trì Cảnh Bụt”, ao sen có thực ở Tu Viện Liên Trì tiểu bang Alabama lại là một tượng trưng cho ao sen trên cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Dà.


Bước chân lên cảnh Liên Trì
Đi trên thật địa dây rồi quê xưa

“Quê xưa” chẳng phải là quê nhà ở Quảng Trị, ở Nha Trang, ở Cần Thơ mà là Chân Tâm thường trụ an lạc ngoài mọi khỏ đau của đời người.

Hồ tâm lặng chiếu trăng ngàn

Mặt hồ tượng trưng cõi tâm, “trăng ngàn” tượng trưng ánh sáng của Tuệ giác, tâm yên tĩnh lặng lẽ không xao động thì Phật tánh mới hiển lộ.

Tam thân xuống cõi đời này
Lô nhô mặt đất nụ đầy thơm hương

Bồ Tát Quán thế Âm với ngàn mắt ngàn tay tượng trưng lực thần thông nhỉn thấy mọi cảnh đời, đưa tay cứu vớt cùng lúc mọi cảnh đời. Những nụ hoa nở khắp mặt đất tượng trưng những hóa thân của Như Lai đem sức sống cho vạn vật.

Dưới ao cá lặn nghe lời kinh thiêng

Cá mà nghe kinh? Đâu phải nghe bằng tai, mà kinh đâu phải tụng bằng lời của cõi nhân gian? Đó là hình ảnh tượng trưng cho Phật tánh hiển lộ ở khắp mọi nơi cho khắp mọi loài chúng sinh.

Vô thường chiếc bóng câu qua

Bóng câu là bóng ngựa vút qua, tượng trưng cho cảnh đời mau sinh mau diệt, chỉ có Tính Giác, Như Lai là mãi mãi không sinh không diệt.

Bài thơ “Bát Nhã Thuyền Không” cũng có nhiều hình ảnh tượng trưng sâu sắc.

Thuyền Bát Nhã qua miền nắng dậy
Trăng lên cao rõi mấy từng không
Anh về bến, chờ Em về với
Trễ chuyến thôi, trễ cả mấy đời

Trí bát Nhã như được nói trong Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, được tượng trưng bằng con thuyền chở chúng sinh đến bờ giác ngộ để diệt mọi khổ đau. “Miền nắng dậy” tượng trưng cho tâm trí trong sáng sạch hết mây mù của lòng tham đắm, giận hờn ngu muội. “Trăng lên cao” tượng trưng chân tâm sáng ngời. “Anh” và “Em” tượng trưng huynh đệ pháp hữu dắt dìu nhau vào đường giác ngộ.

Nhưng dục vọng tràn đầy trong ta như đám sương mù che mặt trời ban mai khiến cho chúng sinh khó lòng thấy được ánh sáng chân tâm, vi thế bánh xe luân hồi sinh tử cứ xoay chuyển vô tận.

Thuyền Bát Nhã, thuyền khách hiếm đợi
Một đôi khi duyên gặp một lẩn
Có khi suốt đời không gặp được
Biết ai cùng để hẹn mai sau

Tính Giác ví như người cha giầu có, còn ý thức giống như đứa con bỏ nhà ra đi lang thang nghèo khổ. Cha nhận ra con trong hình dáng tiều tụy rách rưới nhưng con chẳng hề nhận ra ông trưởng giả giàu có là cha mình nên sợ hãi chạy trốn.

Cha vẫn nhớ con mà con thì cứ hững hờ
Em về bên ấy ngời duyên dáng
Người tình thuở ấy đang đợi chờ

Nhưng muốn về với “Em”,với Phật tánh quang minh mênh mông thì phải tu luyện Trí Bát Nhã

Thuyền Bát Nhã đường về bến giác
Xa niềm đau nỗi khổ tình mê
………….
Thuyền Bát Nhã sẵn chờ đợi bến
Lên đi thôi, chớ có chùn chân
Lên đi, mau, chớ có chậm chờ

Bài thơ “Sương” chứa đựng nhiều hình ảnh tượng trưng rất thâm sâu. Hãy đọc toàn bài một lượt:

Sương qua ngõ vắng cánh buồm lượn
Sương xuống bờ vai gọi mênh mông
Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm, một trời không
Sương dậy trên ngàn rung phổ độ
Cánh vạc cất cao mộng hải hồ
Ta ngỡ dăm ba thuyền xuôi ngược
Hóa ra cát bụi tẩm cơ đổ
Sương xuống đầu làng bươm bướm ngủ
Ngọt lịm chung tình tiếng mẹ ru
Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vẩng trăng nước ao tù
Sương lảng vảng bay trên hè phố
Trần mình trơ trụi ngọn thu phong
Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh

Những liên tưởng trong từng câu thơ rất lạ lùng. Thi dụ ngay câu đầu. Hình ảnh “sương qua ngõ vắng” lại móc ngay với hình ảnh “ cánh buồm lộng”. Cánh buốm lộng gió làm liên tưởng đến biển cả bao la với sức gió mạnh mẽ làm căng buồm, làm sao lại liên kết với “sương trong ngõ vắng” ?

Phải chăng màn sương che mờ con ngõ vắng lan tỏa khắp một vùng khiên cho đất trời bị che lấp gây ảo giác về một mặt biển mênh mông không bờ bến? Nhà thơ ở vào một tâm cảnh cô đơn bé nhỏ sợ hãi trước cái mênh mông không bờ bến đó. Giống như từ trên đỉnh núi cao ngã xuống chỉ thấy vực thẳm hun hút không chỗ bám víu.

Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm mợt trời không

Toàn bài thơ toát ra cái tâm tình heo hút, không nơi nương tựa, muốn tìm được chỗ bám viu là Phật Tánh thường trụ mà chỉ thấy

Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vầng trăng nước ao tù

Rừng vọng tưởng, sương khái niệm che kín lối về giống như bóng trăng trong ao tù là cái tâm chúng sinh đầy phiền não vướng mắc cảnh đời.

Quán chiếu tâm cảnh minh như thế, nhà thơ bỗng thấy sợ hãi

Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh

Tỉnh thức về cái mong manh của cảnh đời để kịp quay về Tính giác Kim Cương vững bền thường trụ.

Đào Ngọc Phong

Westminster, Ca May 12, 2015

Ý kiến bạn đọc
07/07/201518:15:50
Khách
Các Vị Thiền Sư thường tìm nơi vắng vè núi đồi xa lánh Thị thành đề lập thiên viện, như Thiền Sư Nhất Hạnh, Thiền Sư Thanh Từ...
Thiền Sư Sơn Cư( HT Tinh Từ) là một thí dụ, Thiềnviện Kim Sơn được HT xây dựng ờ cành núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng nên hồn thơ của xứ Huế đã khơi dậy nên Thiền Sư Sơn Cư đã cho chúng ta những tuỵêt tác để Phật tử hải ngoại phát tâm tu hành, nhất là nhóm Sợi Nắng...Cám ơn Phong Đào đã tích dẫn những vần thơ nổi tiếng trong Văn đàn và Âm nhạc,mong tác giả viết thêm nửa... để đoc giả của Việt Báo đươc thưởng thức...
06/07/201503:17:43
Khách
Cám ơn nhà Thiện tri thức đã phân tích cảm nhận sự việc một cách súc tich,nhất là
cảm nhận của Thơ Thiền, nhưng có một góp ý cho vui với tác giả: chữ "EM" trong thơ Thiền đôi lúc cũng nửa Đời nửa Đạo vì mượn thơ để nhắn gởi hoặc giải tỏa một nổi niềm trong tiềm thức chưa XẢ BỎ được ! ? "XA THU, XA THU"
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.