Hôm nay,  

Việt Nam và Hoa Kỳ đồng ý khiêu vũ, nếu chưa muốn nhảy giật gân

7/16/201500:01:00(View: 8125)

Việt Nam và Hoa Kỳ đồng ý khiêu vũ, nếu chưa muốn nhảy giật gân

 

Asia Sentinel (14-07-2015)

Tác giả: David Brown

Người dịch: Trần Văn Minh

16-07-2015

 

Trạng thái ngất ngây ở Hà Nội về chuyến thăm Washington của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

blank

Một làn sóng ngất ngây – không có từ ngữ nào nhẹ nhàng hơn – đã tràn khắp Việt Nam vào tuần trước, được kích động bằng một nhận thức chung rằng, đúng thế, Hà Nội và Washington đã thực sự chôn vùi gươm giáo, khoảng 40 năm sau khi xe tăng của Quân đội Nhân dân lăn bánh vào Sài Gòn, 20 năm sau khi hai nước tái lập quan hệ ngoại giao.

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đầu đoàn tùy tùng, gồm một số lãnh đạo đảng, đi thăm Washington. Ông đã được đón tiếp vào ngày 7 và 8 trong vinh dự và nồng ấm bởi Tổng thống Barack Obama, Phó Tổng thống Joe Biden và một danh sách dài các quan chức cấp thấp hơn và các nhà lập pháp.

Không có nhiều kết quả thực chất của chuyến thăm. Có một bình luận nói rằng, bởi vì ông Trọng đã không mang về “những nhượng bộ quân sự quan trọng tại thời điểm của nhu cầu chiến lược cấp bách,” nên chuyến đi của ông thực sự là một thất bại.

Lập luận này đã bỏ lỡ điểm mấu chốt. Các nhà quan sát Việt Nam đã bị mê hoặc. Không chỉ Hoa Kỳ đã có vẻ thừa nhận chế độ cộng sản độc tài của Việt Nam như là một đối tác hợp pháp. Điều không được giới truyền thông nhà nước do đảng chỉ đạo nói tới, là những biểu tượng mạnh mẽ trong hình ảnh của ông Trọng và những kẻ trung kiên khác về cái điều được gọi là – ít nhất là cho đến bây giờ – “phe thân Trung Quốc” của chế độ đã đồng ý rằng Washington và Hà Nội đồng hành chiến lược chống lại tham vọng của Trung Quốc để kiểm soát các vùng biển phía nam từ đảo Hải Nam đến tận Singapore.

Những tràng pháo tay không ngớt ở các cơ quan đảng. Ngày nay, người Việt Nam nhận được đa số tin tức từ những blog đưa lên mạng internet. Ở những nơi đó, ngay cả các nhà phê bình chế độ có tiếng cũng tìm thấy lý do để cổ vũ, bởi vì nhà nước độc đảng cuối cùng đã bày tỏ quyết tâm chống lại sự gây hấn của Trung Quốc.

Ở Việt Nam, chuyến đi của ông Trọng được coi như một bước đột phá trong quan hệ với kẻ thù một thời của Hà Nội. Hoàn toàn là những gì mà các nhà ngoại giao của cả hai bên mong muốn, và trong dịp này các hệ phái chính trị đã đi vào cùng chiều. Nhân vật chính là Tổng Bí thư ĐCS Nguyễn Phú Trọng. Ông thường bị gạt qua một bên như là một cầu thủ hạng nhẹ, “lãnh đạo đảng yếu kém nhất từ trước đến giờ,” nhưng vào dịp này, ông Trọng đã hành xử đúng với địa vị danh nghĩa của mình như nhân vật số một của chế độ Hà Nội.

Người ta nói rằng, do bị sốc bởi quyết định của Trung Quốc điều động một giàn khoan dầu và một đội tàu hộ tống vào vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam một năm trước đây, ông Trọng đã đánh tiếng với Đại sứ quán Hoa Kỳ về ý định muốn gặp ông Barack Obama ở Washington.

Không ai ở Hà Nội có thể đã hiểu hơn ông Trọng về thông điệp mà chuyến đi của ông sẽ chuyển tới Bắc Kinh. Nguyên Viện trưởng Viện Tư tưởng Trung ương từ lâu đã được xem như là người quản lý chủ yếu về mối liên hệ của Việt Nam với “người hàng xóm khổng lồ muôn thuở, và như là người nghi ngờ chủ yếu rằng phải chăng Mỹ có lợi ích vĩnh viễn tại góc cùng của châu Á này hoặc lợi ích thân thiện với chế độ ở Việt Nam.

Những chuyến viếng thăm cấp cao luôn được lên kế hoạch tỉ mỉ, chuyến này đặc biệt cũng như thế. Đã mất nhiều tháng để hoạch định các chi tiết. Về phía Việt Nam, hình ảnh một cuộc gặp tại phòng Bầu dục là tối quan trọng. Với ý định mang những người bảo thủ của đảng tới sự đồng thuận mới nổi lên về hợp tác chiến lược song phương, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ sẵn sàng chiều theo.

Khi ông Trọng khởi hành đi Washington, thì bài xã luận trên các tờ báo đảng của Trung Quốc đã ra tín hiệu tin tưởng rằng Việt Nam chỉ muốn phát triển mối quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và – theo tờ Hoàn Cầu Thời Báo ngày 8 tháng 7 – “suy đoán rằng Washington tìm cách lôi kéo Hà Nội vào âm mưu phức tạp để bảo tồn sự hiện diện bá quyền của Hoa Kỳ ở châu Á, đối mặt với một Trung Quốc đang lên là trẻ con và sai lầm.” Kể từ lúc đó, thật khác thường, Bắc Kinh dường như đã lạc mất ngôn từ.

Ảnh hưởng lâu dài của chuyến đi lịch sử đầy biểu tượng của ông Trọng có thể trở nên ít hơn mọi người tưởng tượng; thường là như thế. Tuy nhiên, sự lạc quan đang lan tỏa khắp Việt Nam.

Viết cho độc giả Việt Nam, Hoàng Anh Tuấn, Viên Trưởng Viên Nghiên cứu Chiến Lược và Ngoại Giao của Bộ Ngoại giao, nói, đây là “bước ngoặt lịch sử” trong quan hệ Việt-Mỹ, trong một bài viết đăng trên báo 5 ngày sau cuộc gặp gỡ giữa ông Trọng và Obama ở Phòng Bầu dục.

Sẽ có những hệ quả quan trọng, theo ông Tuấn: Sự chào hỏi ông Trọng của ông Obama tại Phòng Bầu dục đã chứng tỏ lòng tin chính trị. Hai nhà lãnh đạo đã xem xét và xác nhận những thành tựu thực sự trong nhiều lĩnh vực hợp tác, gồm cả việc thảo luận về nhân quyền, một cuộc đối thoại “cho thấy sự đan xen và song trùng lợi ích giữa Việt Nam và Mỹ trong rất nhiều vấn đề.” Đã có thảo luận kỹ lưỡng về các vấn đề cốt lõi như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và hợp tác quốc phòng. Sự đồng thuận đã rõ ràng trên các vấn đề chủ quyền và an ninh Biển Đông và mối quan hệ của hai nước đối với an ninh và thịnh vượng toàn cầu. Việt Nam và Hoa Kỳ đã thảo luận thẳng thắn và cởi mở những sự khác biệt cho đến các vấn đề hiện nay được xem là “nhạy cảm” – ví dụ như tôn giáo, dân chủ và nhân quyền.

Ông Tuấn lập luận rằng, sau 20 năm, mối quan hệ Việt-Mỹ giờ đây đã trưởng thành và không còn lo ngại việc đề cập đến khác biệt – những khác biệt tự nhiên do các cấu trúc chính trị, giai đoạn phát triển, văn hóa và tôn giáo, tất cả đều khác. Ông nói, đối thoại sẽ mở rộng các điểm tương đồng và đưa quan hệ Việt-Mỹ tiến về phía trước bởi vì bây giờ có lòng tin chính trị giữa Hà Nội và Washington. Và điều chính yếu tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau là, theo ông Tuấn, Hoa Kỳ bây giờ cũng công nhận cấu trúc chính trị của Việt Nam, nghĩa là, họ thật sự tôn trọng sự lựa chọn chính trị của Việt Nam.

Ông Tuấn đã đúng về sức nặng biểu tượng trong chuyến đi của ông Trọng và có lẽ cũng đúng trong kết luận tiềm ẩn của ông rằng Hà Nội đã tự điều chỉnh để gần gũi hơn với Washington, ít nhất là trong suốt thời gian Trung Quốc theo đuổi bá quyền trên vùng biển ngoài khơi bờ biển dài 3.260 km của Việt Nam. Đó là một hành động hợp lòng dân, một hành động sẽ vang tiếng đến những người Việt Nam trung bình có nhận thức chính trị, cũng như với anh em tha hương ở Quận Cam, Hoa Kỳ hay ở Richmond, Úc. Quan trọng hơn, nó cũng tạo ra tiếng vang bên trong và bên ngoài đảng cầm quyền trong khi ĐCSVN hướng tới đại hội, có thể là quan trọng nhất kể từ năm 1991, là năm mà Hà Nội và Washington bắt đầu dò dẫm lối đến mối quan hệ ngoại giao.

 

David Brown là cựu viên chức ngoại giao Hoa Kỳ, ông thường viết các bài bình luận về những vấn đề Việt Nam cho báo điện tử Asia Sentinel.


.
.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.