Hôm nay,  

Hàng Việt Nam – Chế Tạo Tại Nước Ngoài

30/09/201500:00:00(Xem: 7411)

Việt Nam mới ở vào trình độ góp phần ráp chế hay chế tạo thôi.

Với viễn ảnh gia nhập Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương TPP trong vài năm tới, Việt Nam hy vọng buôn bán tự do với một khu vực rộng lớn của 12 quốc gia có sản lượng bằng 40% của toàn cầu. Khi ấy, quy chế về thương hiệu được đặt ra. Đó là điều kiện ưu đãi chỉ áp dụng cho các hàng hóa hay dịch vụ chế tạo tại một quốc gia thành viên của khu vực TPP. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vấn đề xuất xứ chế tạo qua cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách Nguyên Lam nêu vấn đề.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, kinh tế Việt Nam có cơ hội phát triển mới, xuất phát từ hai chuyển động quốc tế. Một là Trung Quốc ở vào giai đoạn chuyển hướng với đà tăng trưởng thấp hơn và hết chiếm lĩnh ưu thế chế biến hàng tiêu dùng nhờ nhân công rẻ. Hai là Việt Nam sẽ cùng 11 nước khác gia nhập khu vực tự do thương mại Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP. Trước viễn ảnh đó, Việt Nam hy vọng thu hút đầu tư của nước ngoài để thành một công xưởng ráp chế hàng hóa phần nào thay thế thị trường Trung Quốc và bán cho các nước trong khối TPP dưới nhãn hiệu là “Hàng Việt Nam”. Nhưng mà nhìn từ giác độ của các thành viên TPP thì thế nào là “Hàng Việt Nam”? Vì câu hỏi này đang gây tranh luận ở trong nước, xin hỏi là ông người ta nên nghĩ sao về một giải đáp thỏa đáng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng người ta sở dĩ tranh luận chỉ vì lầm lẫn về ngôn từ. Tôi xin được đi ngược lên khái niệm sản xuất để chúng ta cùng hiểu ra điều ấy.

- Khi thấy thị trường có một nhu cầu chưa được thỏa mãn mà mình muốn đáp ứng để kiếm lời thì trước hết phải có sáng kiến sản xuất ra loại hàng hóa giải quyết nhu cầu đó của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây là “sáng kiến”, kế tiếp mới là bố trí sản xuất để từ đó có một sản phẩm hoàn tất. Việt Nam mà có sáng kiến và khả năng tổ chức để sản xuất thì sẽ có “Sản phẩm của Việt Nam” hoặc nói theo Anh ngữ là “Product of Vietnam”. Chỉ trong trường hợp đó ta mới gọi “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”.

- Yếu tố quyết định là sáng kiến và khả năng tổ chức để tìm ra kỹ thuật, thiết bị và nguyên vật liệu hầu sản xuất ra một mặt hàng trước đấy chưa có. Việt Nam chưa đi tới trình độ ấy, về cả sáng kiến lẫn tổ chức sản xuất, nên chưa thể có “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”. Đấy là chuyện có thể hiểu được, nhưng bị lãng quên vì cái bệnh tự ru ngủ và hài lòng với sự tầm thường.

- Vì chưa có khả năng, Việt Nam phải ăn theo thị trường. Hình thái nhỏ là khi thấy thiết bị di động của nước ngoài ăn khách thì ta sản xuất các nhóm phụ kiện, như cho smart phone hay tablet của Mỹ và Đại Hàn, với giá rẻ mà phẩm chất và độ bền thì còn thua hàng phụ kiện của hãng chính hay của Trung Quốc. Khi mới bước vào loại hàng có kỹ thuật cao thì chỉ làm được như vậy mà thôi.

- Lên một trình độ khác thì xem xứ khác đang kiếm tiền bằng cách nào ta cố bắt chước, là khai thác sáng kiến của người khác để tham gia vào tiến trình sản xuất. Đa số các quốc gia đang phát triển đều ở vào trường hợp đó là khai thác sáng kiến của các nước tiên tiến để góp phần thỏa mãn một nhu cầu của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây là “góp phần”.

Nguyên Lam: Khi ông nói “góp phần” thì người ta phải tìm hiểu xem là đóng góp chừng nào và cái phần nào trong sản phẩm là của mình và phần nào là của người khác, của nước khác. Thưa ông có phải là như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy và khi ấy ta cần nhìn qua lĩnh vực kế toán.

- Về mặt thương mại, ta biết giới tiêu thụ thường ưa mặt hàng xuất phát từ các quốc gia nổi tiếng. Thí dụ như trang phục xa xỉ đắt tiền mà có nhãn hiệu là “Hàng Pháp” hay “Sản phẩm của Pháp” hoặc “Chế tạo tại Pháp” thì được chiếu cố hơn hàng của Thái Lan chẳng hạn, nên có thể bán cao giá hơn. Thí dụ kia là hàng công nghệ cao của Mỹ, Nhật, Hàn. Khi ấy, vấn đề của quốc gia xuất xứ được đặt ra. Đó là quy chế về “quan thuế” mà Việt Nam cứ gọi sai là “hải quan” vì nhiều cửa quan như phi cảng Tân Sơn Nhất hay Nội Bài chẳng là hải cảng. Theo quy chế này, chỉ được phép gọi là Hàng của Pháp, của Mỹ hay của Nhật Bản, Đại Hàn nếu các nước đó góp phần sản xuất tới hơn 50% của giá thành khi xuất xưởng. “Giá xuất xưởng” là một khái niệm kế toán được các nước cùng chấp nhận và tín nhiệm dù đây đó tại Việt Nam thì vẫn có gian lận.

Nguyên Lam: Nguyên Lam bắt đầu hiểu diễn tiến suy luận của ông. Giả dụ như hãng Samsung của Đại Hàn có sáng kiến về loại điện thoại cao cấp và tổ chức việc sản xuất sao cho có lợi nhất, với giá rẻ mà phẩm chất cao, thì họ có thể thiết lập cơ xưởng ráp chế tại Việt Nam hay Malaysia. Với công nghệ và thiết bị Hàn quốc, phụ tùng hay phụ kiện của Nhật Bản dưới sự quản lý của kỹ sư Đại Hàn để điều khiển nhân công Việt Nam hoặc Mã Lai sản xuất ra điện thoại có nhãn hiệu là “Sản phẩm Đại Hàn”. Trong suốt tiến trình này, từ nguyên vật liệu lên hàng bán chế phẩm rồi sản phẩm hoàn tất được đóng hộp để bán ra ngoài thì nhiều quốc gia có thể tuần tự góp phần, nhưng phần chính, hơn phân nửa của giá xuất xưởng, là của Hàn quốc. Thưa ông, có phải là phương pháp kế toán mới lần lượt bút ghi tiến trình tích lũy giá trị của sản phẩm hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa vâng và khi ấy, khái niệm “góp phần” hay “trị giá gia tăng” mới được đặt ra. Trong thế giới gọi là “toàn cầu hóa” ngày nay, còn rất ít sản phẩm là do một xứ sản xuất nguyên vẹn 100% mà thường là kết quả của nhiều nước cùng tham gia. Vấn đề chính là nước nào quyết định, căn cứ trên cái gì? Nếu năng suất hoặc tay nghề của nhân công Việt Nam mà kém nhân công Mã Lai chẳng hạn thì Samsung có thể dời hãng xưởng mà vẫn có “Sản phẩm Đại Hàn” nhưng ráp chế tại Mã Lai thay vì ráp chế tại Việt Nam. Khi ấy ta mới cần phân biệt các mặt hàng gọi là “Product of Vietnam”, với “Made in Vietnam” hay “Manufactured in Vietnam”, tức là “Sản phẩm của Việt Nam” khác với “Chế tạo hay Ráp chế hoặc Chế biến tại Việt Nam”.

- Việt Nam mới ở vào trình độ góp phần ráp chế hay chế tạo thôi. Khi Bộ Công Thương của Hà Nội hãnh diện về Sản phẩm của Samsung dán nhãn “Hàng Việt Nam” thì họ bị hoang tưởng hoặc nhập nhằng về quy chế thương hiệu. Đấy chỉ là “Sản phẩm Đại Hàn” với phần đóng góp của Việt Nam chưa tới 50%. Trường hợp tương tự chính là áo quần giày dép của Việt Nam với phần đóng góp chủ yếu là của Trung Quốc. Loại sản phẩm đó không thể nào lọt qua ải TPP dù có dán nhãn là “Hàng Việt Nam” vì các thành viên đều truy lên quốc gia xuất xứ không phải là Việt Nam.

Nguyên Lam: Nói về viễn ảnh gia nhập khu vực Xuyên Thái Bình Dương TPP, giới đầu tư quốc tế đã nhìn vào thị trường Việt Nam như một cơ hội mới, thí dụ trong các ngành may mặc áo quần, để “Hàng Việt Nam” được ưu đãi về quan thuế khi bán cho 11 nước kia. Nhưng khốn nỗi trong cấu trúc Hàng Việt Nam ấy thì phần đóng góp của Trung Quốc lại chiếm đa số vì Việt Nam chưa có nguyên nhiên vật liệu và nhiều phụ tùng lắt nhắt, từ cái khóa trên áo hay sợi dây của đôi giày, nên cứ phải nhập từ Trung Quốc. Thưa ông, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề ấy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin đi từ chuyện xa đến chuyện gần thì dễ thấy toàn cảnh.

- Năm 1980 Bộ Công Thương Quốc Tế MITI của Nhật, nay là Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp METI, lập ra Viện Khoa học Công nghiệp và Thuật lý (Agency of Industrial Science and Technology) AIST có nhiệm vụ phối hợp hoạt động của 16 trung tâm nghiên cứu trên toàn quốc với ngân sách rất cao để nghiên cứu và thực hiện 25 dự án ưu tiên nhằm giải quyết vấn đề tài nguyên và sản xuất và giữ vị trí khoa học tiên tiến cho Nhật. Cho đến nay, dù có sản lượng kinh tế đứng hạng ba thế giới, Nhật vẫn có ngân sách nghiên cứu và phát triển hạng nhất cho nên tiếp tục có những sáng kiến tiên tiến.

- Gần với chúng ta hơn thì năm 1966, khi kinh tế Nam Hàn còn thua kinh tế miền Nam Việt Nam, thì Hội đồng Kế hoạch Nam Hàn đã đề ra hướng phát triển công nghiệp cho 20 năm sau của ba lớp kỹ nghệ. Ba lớp đó là 1/ các ngành phôi thai non yếu như thép, đóng tầu, phân bón và ráp chế điện tử, 2/ các ngành có khả năng cạnh tranh là dệt sợi, áo quần hay giày dép – như Việt Nam ngày nay - và lớp 3/ là các ngành có thể tự túc. Cứ mỗi năm năm thì sự yểm trợ của nhà nước và các tập đoàn sản xuất của tư nhân phải nâng ngành ở lớp dưới lên lớp trên. Tiêu chí của họ là phải bắt kịp và vượt Nhật trên thị trường xuất khẩu. Kết quả là nửa thế kỷ sau, là ngày nay, sản phẩm Đại Hàn như xe hơi hay điện thoại đang chiếm thị phần rất cao trên trường quốc tế của Mỹ, Nhật, Âu.

- Trong suốt tiến trình đó, hai nước đang dẫn đầu Đông Á vốn có ít tài nguyên và nhân lực nội địa là Nhật Bản và Đại Hàn đã phát huy sáng kiến và tổ chức để tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động. Họ lập ra chu trình cung cấp và điều hướng việc đầu tư ra ngoài để dùng bắp thịt và vật liệu của xứ khác. Nếu nhớ lại thì ta tự hỏi rằng trong những năm đó, Việt Nam làm gì và nghĩ gì để ngày nay đi mua vật liệu của Trung Quốc và bán bắp thịt của mình nhờ lương rẻ hầu có phần đóng góp rất nhỏ?

Nguyên Lâm: Như ông vừa trình bày kinh nghiệm của các nước đi trước thì việc có được “Sản phẩm Việt Nam” thay vì chỉ có “Sản phẩm Ráp chế tại Việt Nam”, người ta cần khởi sự từ cái đầu, từ khả năng phát huy sáng kiến và tổ chức. Mà có phải là khả năng đó đòi hỏi tầm nhìn dài hạn của giới lãnh đạo kinh tế và doanh nghiệp hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đúng như vậy và tôi nhắc đến kỹ nghệ đóng tầu của Đại Hàn, 20 năm trước còn là phôi thai mà sau đó đã vượt Nhật Bản, còn Việt Nam thì 10 năm trước mới sinh ra hiện tượng Vinashin với kết quả tồi tệ ra sao thì ta đã rõ. Một tập đoàn kinh tế nhà nước có sự yểm trợ mọi mặt của nhà nước mà còn vậy thì làm sao tư doanh Việt Nam có thể cạnh tranh với nhà nước và với quốc tế sau này? Nếu ta có thấy “Hàng Việt Nam” trong loại phụ kiện cho Samsung hay Apple mà chỉ có ưu thế rẻ tiền mà chóng hư thì mình hiểu ra nguyên do sâu xa của vấn đề.

- Sau cùng, ta chẳng nên quên rằng trong hai chục năm qua, công nghệ của thế giới cũng thay đổi nên phí tổn sản xuất của nguyên vật liệu như tơ sợi hay hàng dệt giảm mạnh, với phần đóng góp ít hơn của nhân công và nhiều hơn của thiết bị máy móc. Vì vậy, Việt Nam nên nhìn xa vào đó để tìm nguồn sản xuất và cung cấp khác ngoài Trung Quốc hầu khai thác được lợi thế về thuế khóa của hệ thống TPP. Chỉ với tinh thần đó thì mình mới có “Hàng Việt Nam” đích thực. Yếu tố then chốt ở đây là tinh thần, là tầm nhìn. Chưa khắc phục được bài toán ấy thì mình chỉ đi làm hàng nhái, hàng giả và “Made in Vietnam” vẫn đồng nghĩa với hàng rẻ mà chẳng bền!

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài học thấm thía này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.