Hôm nay,  

Giới Thiệu Pháp Tru & Pháp Vị Trong Kinh Pháp Hoa, Cở sở Lý Tính Duyên Khởi, Và Giáo Nghĩa Phật Tính Thường Trú

06/01/201600:00:00(Xem: 9040)

blank
Bìa Báo Chánh Pháp Số 50.

*Sanskrit:

स्थितिका हि एषा सद धर्मनेत्री

प्रकृतिश्च धर्ामण सदा प्रभा[सिे]।

विहदत्ि बुद्धा द्विपदानर्ुत्तर्ा

प्रकाशतिष्िस्ति र्र्ेकिानर्॥् १०२॥

धर्मस्थितििं धर्मतनिार्िािं च

तनत्िस्थििािं लोकक इर्ार्कम्प्िार्।्

बुद्धाश्च बोधध िंपधृििीि र्ण्डे

प्रकाशतिष्िस्ति उपािकौशलर्॥् १०३॥

(सद्धर्पम ुण्डरीकसूत्रर् ्Saddharmapuṇḍarỵkastram, २

उपािकौशल्िपररििमः। 2 upyakauśalyaparivartaḥ, Buddhist

Sanskrit Texts 6)

* Tibetan:

ཆོས་ཀྱི་ཚུལ་འདྱི་རྟག་ཏུ་གནས་པ་དང་། །

ཆོས་ཀྱི་རང་བཞྱིན་རྟག་ཏུ་འོད་གསལ་བར། །

རྐང་གཉྱིས་དམ་པ་སངས་རྒྱས་རྣམས་མཁྱེན་ནས། །

ང་ཡྱི་ཐྱེག་པ་གཅྱིག་ཅྱེས་སོན་པར་འགྱུར། །

ཆོས་ཀྱི་གནས་ཉྱིད་སོན་མྱེད་ཆོས་ཉྱིད་ནྱི། །

ཆོས་ཀྱི་རང་བཞྱིན་རྟག་ཏུ་འོད་གསལ་བར། །

ས་ཡྱི་སྱིང་པོར་བྱང་ཆུབ་སངས་རྒྱས་ཏྱེ། །

ཐབས་ལ་མཁས་པ་ཤྱིན་ཏུ་སོན་པར་འགྱུར།

(དམ་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོའྱི་མདོdam chos pad-ma dkar po'i mdo,

ཐབས་ལ་མཁས་པའྱི་ ལྱེའུ་ གཉྱིས་པ་ ནྱི་, Peking [P. No.] 0781, mdo

sna tshogs, chu, 1b1-205a5 )

Dịch Việt (theo Sanskrit, tham chiếu Tibetan):

102. Pháp nhãn này thường trú,

Luôn luôn rọi sáng tự tính (prakṛti) bằng pháp.

Biết rõ điều này,

Chư Phật, Đấng Lưỡng Túc Tối Tôn

(dvipadnamuttam) [**],

Sẽ tuyên thuyết, tán dương,

Về cỗ xe duy nhất (ekayna) này.

103. Pháp này là nguyên lý tồn tại ổn định

(dharmasthiti),

Và Pháp này điều hành theo một quy luật cố định

(dharmaniymat)

Quy luật này, là nguyên lý tồn tại bất biến

GIỚI THIỆU PHÁP TRỤ (dharmasthiti)

& PHÁP VỊ (dharmaniymat)

TRONG KINH PHÁP HOA

[Cở sở Lý tính duyên khởi, và giáo nghĩa Phật tính thường trú]

Phước Nguyên

(nityasthitṃ), ngay tại thế gian (loki

immakampym)

Nơi Bồ-đề tràng [*], chư Phật thấu suốt điều này;

Nên các Ngài bằng phương tiện quyền xảo,

Tuyên thuyết và khen ngợi (prakayiṣyanti).

*Lời bàn:

Đây không phải là một bài nghiên cứu, chỉ là ghi

lại một vài ý tưởng bất chợt, thiết nghĩ có một số vấn

đề quan trọng, xin gợi ý như sau:

Bản Hán, La-thập hiểu từ sanskrit prakṛti (tự

tính) ở đây là Phật tính, nên dịch: “Phật chủng tùng

duyên khởi.” Còn Kern hiểu prakṛti, với ý nghĩa

đương với tự tính, nên dịch là “law” (The line of the

law forms an unbroken continuity and the nature of

its properties is always manifest). Và Burnouf dịch

Pháp là: “La règle de la loi est perpétuellement stable”.

Từ cơ sở “pháp trụ và pháp vị”, Pháp Hoa đề ra

những phương tiện đi vào tri kiến của Phật hết sức

đa dạng và đặc biệt.

Từ Sanskrit dharmasthiti, Tibetan tương đương:

ཆོས་ཀྱི་གནས་, La Thập dịch là “Pháp trụ”. Từ Sanskrit

“sthiti”, có nghĩa gốc là nguyên lý; Tibetan gọi là:

གནས, nghĩa nguyên lý tồn tại, hay cũng hiểu là sự tồn

tại ổn định; Kern dịch “sthiti” là: “stability”: tính ổn

định, bền vững, …

Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp

duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn

gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”: “evaṃ ca

bhṣmyahu nityanirvṛt diprẳnt imi sarvadharmḥ|

Và Ta nói như vậy: tất cả pháp này, bản

lai tịch tĩnh, vốn thường hằng tịch diệt.” (Kệ 68-Bản

Phạn); hay cũng gọi là “thường trú”: “sthitik hi eṣ

sada dharmanetrỵ prakṛtiśca dharmṇa sad prabh

[sate]|” Pháp nhãn này thường trú, luôn luôn rọi

sáng tự tính bằng pháp” (Kệ 102-bản Phạn).

Từ Sansktit dharmaniymat, Tibetan tương

đương: སོན་མྱེད་ ཆོས་ཉྱིད་ནྱི་, La Thập dịch Hán là: “Pháp vị”,

từ niymat, là từ phái sinh của danh từ Niyama:

quy luật; Kết hợp với đuôi “t”, với ý nghĩa là điều

hành, vận hành. Bản Tibetan cũng hiểu từ niymat,

là nguyên vẹn, hoàn mỹ, không có rạn nứt, nên mới

dịch là “ སོན་མྱེད་”. Và Kern dịch là: “fixed rules”: quy tắc

nhất định, bất biến.

Vậy, niymat có nghĩa tính chất điều hành theo

một quy luật cố định, ở đây là quy luật duyên khởi

(pratỵtyasamutpdaṃ): “trong khi cái này tồn tại, thì

cái kia tồn tại”, tính chất này “luôn luôn rọi sáng tự

tính bằng pháp”. Cũng có thể cắt nghiã là tính chất

điều hành theo nguyên lý vô ngã, mà ý nghiã tư

tưởng không có gì khác.

Với nghiã như trên của hai từ, Pháp trụ

(dharmasthiti) và pháp vị (dharmaniymat) là hai

từ chỉ cở sở lý tính duyên khởi, và cũng là cở sở của

giáo nghĩa Phật tính thường trú, mà bài kệ 102

thuộc chính văn phẩm Phương tiện, Hán dịch của La

-thập dịch, đọc là: “thị/ pháp trụ/ pháp vị; thế gian


tướng thường trụ 是¥法@住Z法@位世¢ŠƠ相Š常í住Z”. Do kệ Hán

dịch quá súc tích, nên nhiều trường hợp những vị

dịch giảng Việt văn, đã hiểu lầm ý nghĩa của câu

này, đại khái như: “Pháp ấy trụ nơi pháp”,

v.v… Hiểu như vậy là sai lầm nghiêm trọng, mất đi

ý nghĩa nguyên ủy của nó, nguyên văn Sanskrit của

nó là: “dharmasthitiṃ dharmaniymatṃ ca”, có

xuất hiện liên từ “ca” (và), bất biến từ च ca: có giá

trị như giới từ “cùng với”, hay cũng được sử dụng

như một liên từ: và, cùng. Như vậy rõ ràng ở đây là

một cặp từ: “dharmasthitiṃ (pháp trụ) ca (và) dharmaniymat

(pháp vị)”.

Đối chiếu với bản Tây Tạng cũng dịch sát theo

văn sanskrit: “འཇྱིག་རྟྱེན་འདྱི་ན་རྟག་ཏུ་མྱི་གཡོ་ནས། ། “Pháp này là

nguyên lý hoàn mỹ (ཆོས་ཀྱི་གནས་=dharmasthiti), và

Pháp này vận hành theo một quy tắc cố định (སོན་མྱེད་

ཆོས་ཉྱིད་ནྱི་=dharmaniymat)”.

Và đem hai bài kệ này, so sánh với nội dung

trong bản Anh dịch: The Lotus of the True Law,

Kern, dịch từ bản Phạn văn Népal; và bản dịch

Pháp: Le Lotus De La Bonne Loi, do Burnouf dịch từ

nguyên bản tiếng Phạn, hai bản này có nội dung hai

bài kệ đa phần tương đồng với bản Sanskrit:

*Anh dịch:

“101. The line of the law forms an unbroken

continuity and the nature of its properties is always

manifest. Knowing this, the Buddhas, the highest of

men, shall reveal this single vehicle.

102. They shall reveal the stability of the law, its

being subjected to fixed rules, its unshakeable perpetuity

in the world, the awaking of the Buddhas on

the elevated terrace of the earth, their skilfulness.”

(Kern, H. Saddharma Pundarỵka or the Lotus of

the True Law, Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred

Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover),

Delhi 1968. Translation from Sanskrit)

* Pháp dịch:

“101. La règle de la loi est perpétuellement stable,

et la nature de sesconditions est toujours lumineuse

; les Buddhas, qui sont les Meilleurs

deshommes, après lavoir reconnue, enseigneront

lunique véhicule, qui est lemien,

102. Ainsi que la stabilité de la loi, et sa perfection

qui subsisteperpétuellement dans le monde sans

être ébranlée; et les Buddhasenseigneront létat de

Bôdhi, jusquau centre de la terre, en vertu de leurhabileté

dans lemploi des moyens [dont ils disposent].”

(Burnouf, Le Lotus De La Bonne Loi, Paris, Imprimerie

Nationale, 1852. Reprint, Librairie d'Amé-

rique et d'Orient A. Maisonneuve, Paris, 1973. P.34).

Minh giải ý nghĩa này, có thể tìm thấy ở Pháp

uẩn túc luận (Đại 26, tr. 0505a): “Này các Tỷ-kheo!

Nên biết, do duyên là sinh mà có già và chết, hoặc

Phật xuất hiện, hoặc không xuất hiện, duyên khởi

như thế là pháp trụ, pháp giới”.

Và cuối cùng, để chấm dứt lời bàn, xin vay mượn

đoạn kinh ở Paccaya-sutta, S. II, p. 25: Katamo ca

bhikkhave paṭicca-samuppdo // Jtipaccaybhikkhave

jarmaraṇam uppdvTathgatnam

anuppdvTathgatnaṃ// ṭhitva sdhtu

dhammaṭṭhitatdhammaniymatidappaccayat//

“Duyên khởi là gì? Do duyên là sinh mà có già và

chết. Các Như Lai dù xuất hiện hay không xuất hiện,

giới này là thường trú, là pháp trụ, pháp vị, tức là y

tha duyên tính.”
__________________

Phụ chú:

[**] Đấng Lưỡng Túc Tối Tôn, Skt. dvipadnamuttam,

dva: hai, pad: chân, amuttam, biến cách

của अनुत्तर, anuttara: vượt trội, trên hết, vượt hẳn, tối

thắng, tối tôn, vô thượng....

[*] Bồ đề tràng, (=Đạo Tràng), Skt. Bodhimaṇḍala,

từ maṇḍala, Hán phiên âm thông dụng là mạn-đà-la

曼Ư‘羅…, có nghĩa là đàn tràng, chỗ ngồi có hình

vuông hoặc tròn, được giới hạn trong một phạm vi

nhất định, Bodhi: phiên âm là Bồ-đề, dịch là Đạo,

giác ngộ,… Thói quen hay gọi Bodhimaṇḍala là Bồ-đề

đạo tràng, như vậy là sai, dư chữ. Như vậy, Skt. Bodhimaṇḍala:

Bồ đề tràng/Đạo Tràng.

* Phạn bản La-tin:

sthitik hi eṣ sada dharmanetrỵ

prakṛtiśca dharmṇa sad prabh[sate]|

viditva buddh dvipadnamuttam

prakayiṣyanti mamekaynam||102||

dharmasthitiṃ dharmaniymatṃ ca

nityasthitṃ loki immakampym|

buddhca bodhiṃ pṛthivỵya maṇḍe

prakayiṣyanti upyakauśalam||103||

[Saddharmapuṇḍarỵka-stra, Prof.U.Wogihara and C.

Tsuchida, Romanized and Revised Text, Tokyo,

1958.]

Nguồn: Báo Chánh Pháp số 50, tháng 1 năm 2016.

www.chanhphap.us

Ý kiến bạn đọc
06/01/201614:01:39
Khách
Phật pháp phải nằm trong thế gian pháp. Bài viết này không thực dụng. Tác giả muốn khoe khoang kiến thức. Một bà già trầu niệm Phật không đủ nguyên câu, không biết gì về không tánh hay duyên khởi vẫn đạt được an lạc. Tác giả có thể là người tinh thông Phật pháp nhưng lại không tùy duyên thuận pháp nên đi quá xa Phật đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.