Hôm nay,  

Đinh Cường, Nghệ Thuật Là Cứu Rỗi, Kỷ Niệm Là Đam Mê

22/01/201600:01:00(Xem: 7175)

Nhắc đến hoạ sĩ Đinh Cường, khách thưởng ngoạn nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam trong thập niên sáu mươi, bảy mươi, hầu như ai cũng biết đến ông. Phải nói khi ấy là thời hưng thịnh của ngành mỹ thuật Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ rực rỡ cùng sự xuất hiện của Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam (1966) với một lực lượng hùng hậu những cây cọ mang đầy nhiệt huyết trong việc khai phá và nỗ lực đi tìm cái mới. Họ chủ trương tạo ra những cơ hội gặp gỡ nhau để trao đổi những kinh nghiệm hầu hình thành những đường lối sáng tạo độc đáo trong bầu không khí sinh hoạt hội hoạ trong sạch và cởi mở.

Có thể nói lòng hăng hái phát triển nghệ thuật khơi dậy sự thử thách nơi các hoạ sĩ trẻ thúc đẩy họ đi vào những cuộc thử nghiệm các trường phái nghệ thuật khác nhau từ lập thể, dã thú, biểu hiện, đến siêu thực, trừu tượng, vô hình dung, tân hiện thực... Họ là những Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Đỗ Quang Em, Nghiêu Đề, Lê Tài Điển, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Mai Chửng, Dương Văn Hùng, Nguyễn Lâm, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Ngy Cao Uyên, Rừng...

Đinh Cường đảm nhiệm chức vụ Ủy Viên Kiểm Soát trong Hội Đồng Quản Trị HHSTVN. Từ đó ông đã bước vào thế giới tạo hình với một vũ trụ và tấm lòng đầy thơ. Ông đã không ngừng tìm kiếm, say sưa sáng tạo và thử nghiệm nhiều thể loại, trường phái, và hoạt động cho đến phút cuối đời. Với một lượng tranh đồ sộ tới cả ngàn bức tranh, những bài viết về hội hoạ, những bài thơ về kỷ niệm cùng bạn hữu mà ông chia sẻ trong thi ca, Đinh Cường đã để lại cho người yêu mến ông vô số những tài sản tinh thần sâu sắc, đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.

blank
Dạ Khúc chim.

Hoạ sĩ Đinh Cường tên thật là Đinh Văn Cường, sinh năm 1939, tại Thủ Dầu Một, Bình Dương. Mất ngày 7 tháng 1 năm 2016 tại Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1963, đến năm 1964 thì tốt nghiệp giáo khoa hội hoạ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Ông từng sống tại Huế, Đà Lạt và Sài gòn trước khi định cư tại Hoa Kỳ. Tranh ông được triển lãm trên nhiều thành phố tại quốc nội và nhiều quốc gia khác. Thơ và bài viết của ông về hội hoạ đăng trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật: Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Da Màu, Tiền Vệ...

Là một người tài hoa, với một bản năng sáng tạo mạnh mẽ, hoạ sĩ Đinh Cường xuất sắc không những trong thế giới tạo hình mà cả trong phê bình nghệ thuật. Trong lãnh vực thi ca, thơ ông cũng rất sâu sắc và đầy thi vị.

Trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài này, tôi chỉ xin viết về mảng hội hoạ.

Ông quen biết rộng và có nhiều bạn. Trịnh Công Sơn, người bạn thiết của ông, đã hiểu ông tường tận và đã từng nhận xét về ông như sau “Rong chơi là một thứ kinh vương giả trong tâm hồn Đinh Cường. Cứ lên đường, dù cao nguyên dù biển, là đã nghe thấy trong Cường vang lên một tiếng reo vui mãn nguyện. Đi không chỉ là sứ mệnh của đôi chân, mà đi, với Cường, là lòng ngưỡng vọng linh thiêng về một tiếng gọi.” Trịnh Công Sơn gọi ông là một lãng tử đam mê kỷ niệm.

blank
Chân dung Bùi Giáng và dê.

Những vật thể phụ trong tranh ông thường là chim và ngựa, tượng trưng cho thể động, tượng trưng cho niềm khát khao được đi và đến. Ông yêu mến những nơi đã sống, lưu luyến nhiều chốn đi qua, gìn giữ, ấp ôm kỷ niệm đẹp nào lưu lại, và thương quý, chung thuỷ với tình thân bạn hữu. Đà Lạt, Huế, Paris bàng bạc những lưu dấu thơ mộng và đẹp đẽ cũng như niềm vui, nỗi nhớ, phút thảm sầu, đều được ông sắp đặt, thể hiện lên tranh. Phần lớn những chủ đề trong tranh ông xoay quanh âm nhạc, cảnh thiên nhiên, đá, hoa, chim, ngựa, cũng như người, bạn bè, nhất là thiếu nữ. Tranh thiếu nữ của ông thường có thêm hoa, chim, ngựa và khăn choàng. Những nơi ông sống và đi qua thường lạnh nên thiếu nữ trong tranh ông có thêm khăn quàng hay đội khăn giống thiếu nữ trong tranh Thái Tuấn.

Dạ Khúc chim 5/2006(Birds evening song) Oil on canvas, 30”x40”

Bức tranh đánh mạnh vào cảm xúc người xem qua bố cục xanh của đêm. Đêm cùng trăng tấu lên một hợp âm xanh nhạt và thẫm với những cánh chim vần vũ một tiết điệu xanh buồn thảm. Vị trí khác nhau của cánh chim mang màu sặc sỡ đậu trên cành, khiến tôi liên tưởng tới những nốt nhạc trầm, bổng, cao, thấp của một tấu khúc đêm. Chim trong tranh rất nhiều khiến tôi nhớ đến hai bức tranh "Nhiều mây chim bay không nổi" và "Người và chim" mà ông vẽ để tưởng nhớ Phạm Công Thiện. Có lẽ những câu thơ trong bài “Ngày sanh của rắn” của Phạm Công Thiện đã ám ảnh ông khôn nguôi, tôi đi đông chìm / trời âm u thung lũng khô / nhiều mây chim bay không nổi. Người thiếu nữ gầy guộc, cầm hoa, trong áo dài và khăn choàng đầu. Cô có khuôn mặt, sống mũi và thân hình đều dài của một hoạ sĩ Đinh Cường chịu ảnh hưởng Modigliani như nhiều hoạ sĩ Việt Nam vào thập niên 60 - 70. Theo tôi, “Dạ khúc chim” không những đẹp mà còn sống động phát nên những âm thanh kỳ ảo của một bài ca đêm.

Nói đến phần tranh chân dung, xem hơn trăm bức chân dung ông vẽ cho những văn nghệ sĩ ông quen biết, tôi càng hiểu thêm sợi giây tình bạn kết giao của ông dài đến mực nào. Có lẽ Đinh Cường là một hoạ sĩ Việt Nam vẽ chân dung cho bạn bè nhiều nhất. Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn là người có nhiều tranh chân dung hơn cả. Tình bạn chiếm một ngăn lớn trong trái tim và đời sống tinh thần của ông.

blank
Chân dung tự hoạ.

Chân dung Bùi Giáng và dê

Nỗi nhớ và thương Bùi Giáng đã khiến ông vẽ nhiều chân dung nhà thơ qua các thời kỳ khác nhau. Bức vẽ theo thể minh hoạ (illustration) này có lẽ không đẹp và thơ mộng bằng bức "Bùi Giáng và Dê tím hoa cà", nhưng tôi nhắc nhở đến, vì nó thể hiện một loại tranh khác mà Đinh Cường đã vẽ và có theo đuổi. Tôi rất thích tranh ông vẽ theo thể loại này, với vài nét chấm phá đơn sơ nhưng vẫn hay, vì người hoạ sĩ nắm bắt được đặc điểm và chiều sâu của điều hay vật thể mà họ muốn miêu tả.

Chỉ vài nét phác miêu tả, ai cũng nhận ra được thi sĩ họ Bùi trong bức tranh này. Khuôn mặt Bùi Giáng bên trên, nàng dê núi trắng đeo vòng hồng ngự trị bên dưới tạo cho chàng thi sĩ một nét đẹp vừa hoang dại, vừa ngộ nghĩnh của các vị thần đầu người, mình thú trong huyền thoại cổ Hy Lạp. Cái khéo tài tình của Đinh Cường khi vẽ chân dung bè bạn là ông không chỉ lột được cái thần trên khuôn mặt, mà ông còn lột được khí chất cũng như nét đặc thù sinh hoạt của họ trong cuộc sống thường nhật. Khoảng trống hẹp màu hồng phớt phía trái bức tranh tiết lộ thêm đây là em dê trắng, vòng hồng trong thơ,... Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm / Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu / Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh / Này đây em Hoa Cà hỡi! chiếc nâu... (“Nỗi lòng Tô Vũ”, thơ Bùi Giáng)

Ngoài việc vẽ chân dung cho bạn bè, Đinh Cường cũng đã vẽ vài bức chân dung tự hoạ cho mình. Mỗi bức ông vẽ theo một kiểu khác nhau theo từng thời kỳ và biến động của cuộc sống ông. Tôi chọn ra bức dư ới đây vì, theo tôi, không những nó nổi bật mà nó còn thể hiện được cá tính đặc thù của ông cũng như màu sắc và lối vẽ ông theo đuổi trong thời gian đó (2009).

Chân dung tự hoạ (Auto Potrait) Đinh Cường, 5/2009

Xem tranh Đinh Cường mà bỏ quên loạt tranh tôn giáo của ông, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Ông có trên 20 bức tranh tôn giáo, phần lớn nói về Đạo Phật.

blank
Niệm (2).

Ông từng tâm sự:

“Nghệ thuật là đời sống riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để làm gì? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm... Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh. Nó hiện ra đó và tôi đã hụt hơi, mệt mỏi. Thế giới xa lạ được dựng lên từ một hồi ức hay một bắt gặp vụt đến, rồi loang dần trên mỗi khoảng không đen... Xin hãy cảm, nhớ đừng bao giờ tìm hiểu.”

Tôi đồng ý với tác giả về những lời ông bày tỏ. Tôi xem tranh ông với cảm nhận và nhận định của riêng tôi. Khách thưởng ngoạn cũng vậy, họ nhìn tranh và thấy được gì, có nghệ thuật hay không, xấu hay đẹp, kỳ quặc hoặc tuyệt vời, là tuỳ thuộc ở mắt kẻ nhìn. “Art, like beauty, is in the eye of beholder”. Nhất là tranh tôn giáo, sự thụ nhận và cảm nhận về tôn giáo mỗi người mỗi khác nên sự chọn lựa của tôi để giới thiệu với độc giả chỉ là một cảm nhận riêng tư.

Bức Niệm (2) này gây ấn tượng mạnh mẽ cho tôi. Sau đây là những gì tôi cảm nhận.

Niệm Phật là một phép tu trong Phật giáo, thuộc về Tịnh Độ Tông. Phép Niệm Phật này cũng tương tự như Phép Toạ Thiền, Niệm Hơi Thở trong phái Thiền Tông. Khi toạ thiền, “thiền giả phải thoát ra sự vướng mắc của tư tưởng, ảnh tượng, khái niệm, vì mục đích của toạ thiền là tiến đến một tình trạng vô niệm, tỉnh giác, không dung chứa một nội dung nào. Sau một giai đoạn kiên trì trong vô niệm, hành giả sẽ bỗng nhiên trực ngộ thể tính của mình, đó là tính Không, cái “thể” của vạn vật.” (theo Wikipedia).

Trung tâm bức hoạ là hai nhân vật nam và nữ, chắp tay, quay mặt đi, mỗi người một phía. Chung quanh họ là những sắc màu tượng trưng cho đất, nước, gió, lửa. Đinh Cường rất khéo léo và có chủ ý trong việc dùng màu. Những màu lạnh, xanh, nhu hoà, tượng trưng cho tính âm, ông dành cho người nữ. Những màu nóng, đỏ, cam, vàng, tính dương, người nam có nhiều. Con người của thất tình, lục dục có đủ, ông gom lại trong các sắc màu. Sau khi toạ thiền tìm được thân an, tâm không loạn và chánh niệm, thì trong phút an bình ấy cả hai nhân vật nam và nữ nhập làm một. Không có ngã, không có giới tính, không tạp niệm, và chính giữa tranh là một đoá sen trắng thơm ngát hương tinh khiết.

blank
Trăng và đá đen.

Sau cùng tôi xin chia sẻ cùng bạn đọc một loại tranh trừu tượng mà Đinh Cường đặc biệt ưa thích vì ông vẽ rất nhiều. Một số lớn các cựu hoạ sĩ thành danh Việt Nam như Nguyên Khai, Trịnh Cung, Cao Bá Minh, cũng đi vào thử nghiệm thể loại tranh này.

Bức "Trăng và Đá Đen" là một trong những sáng tác mới nhất tháng 9, năm 2015 trước lúc ông mất, nay thuộc bộ sưu tập của Dr. Ha Phan Ho.

Bức tranh hình chữ nhật với nền màu đỏ nóng chủ đạo đã khiến hai vật thể “Mảnh trăng” màu trắng và “Đá đen” nổi bật, đối xứng qua một lằn ranh mỏng mảnh màu đen, tựa như hai phía của cuộc đời, con người và thiên nhiên, tĩnh và động. Không cần biết ông vẽ gì. Chúng ta chỉ cần tưởng tượng ra một hoạ sĩ Đinh Cường đang lang thang giữa bờ biển của Great Salt Lake ở Utah là nơi ông tạo tác bức tranh này. Cát nơi đây trắng trong như thuỷ tinh và bên trên là mảnh trăng treo lơ lửng phản ảnh màu trắng của cát, của Mẹ Đất. Tình cờ ông nhặt được một hòn đá đen còn lấm tấm bụi cát trắng và mang nó về nhà làm vật lưu niệm. Người ở tuổi già thích hồi tưởng và, qua đó, tất cả ký ức đời ông sống lại. Những thăng trầm của cuộc sống, được mất, đua chen, tất bật trong cuộc đời đã trôi qua, chỉ còn lại hòn đá đen trơ gan cùng tuế nguyệt. Hòn đá lấm bụi cát đời ông giờ cũng nằm xuống bình yên, thôi lao xao, bất động.

Tôi xin thắp một nén hương, cầu nguyện cho hương hồn ông được an lạc ở cõi bình yên đời đời.

(trích Thế Giới Nghệ Sĩ số 49)

Trịnh Thanh Thủy

Tài Liệu Tham Khảo
http://dinhcuongpaintings.blogspot.com/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.