Hôm nay,  

Nợ Hay Duyên!

14/06/201600:00:00(Xem: 10143)

Lấy được vợ người Ninh Hòa cũng là một chuyện kỳ tích! Nói như vậy không phải con gái xứ Ninh có cái gì đặc biệt, khác với những cô nàng xứ khác. Nhưng vô tình mình bị mắc bẫy, chui vào rồi không ra được nữa. Mà cái bẫy làm ta dính với xứ Ninh không phải là do các cô giăng ra, dụ ta vào rồi cho sập cổng, mà là vì trời xui đất khiến, một ngày đẹp trời đi lạc vào “xứ nem”. Có lẽ mùi nem nướng, nem chua, chỉ một vài lần dính vào, nó đã biến ta thành con ruồi bị nạn. Kể từ đó, thân phận của ta gắn bó với xứ nem bởi lưới tình, mà chị nhện khéo nấu ăn nầy đã bó chân ta đến suốt cả cuộc đời!

Chuyện là như thế nầy, có một ngày đẹp trời nọ, sau khi thi đổ bằng “thành chung”, anh chàng con nhà “địa chủ” xứ dừa Tam Quan làm một chuyến “du lịch” miền cát trắng Nha Thành. Trước vẽ đẹp thiên nhiên và thành phố biển mộng mơ đầy hấp dẫn; anh chàng thư sinh mê mệt không thể nào muốn rời xa. Sau đó anh ta tìm cách xin vào học, chỉ cốt thỏa tính lảng mạn, yêu thiên nhiên và cái đẹp độc đáo của thành phố biển. Xứ Tam quan cũng có một bờ cát trắng phau, rừng dương mát rợi… Nhưng thường là “bụt trong nhà không thiên” nên mới có chuyện người xứ “Nẫu” bợ cô vợ xứ nổi tiếng “Cọp Khánh Hòa”!

Nếu dài dòng văn tự về Nha Trang, thì ta chỉ quẩn quanh một thành phố biển có sức thu hút chàng trai mang trong mình con vi trùng lảng tử. Nhưng vì muốn nêu bật cái dị biệt, quả thật rất dị biệt, ở một mảnh đất nhỏ cách xa Nha Trang hơn ba chục cây số về hướng Bắc; vừa trầm lắng, vừa thu hút: Đó là thành phố Ninh Hòa.

Lần đầu tiên tôi đến Ninh Hòa vào một trưa nắng nóng kinh người. Lúc đó, tôi đang vừa học vừa làm thầy dạy kèm cho ba nhóc tì. Nhà ở khoảng góc đường Hoàng Tử Cảnh và Hai Chùa. Dạy kèm ba nhóc lớp ba, lớp nhì và nhất – Sau nầy đổi là lớp ba, bốn và năm – ăn ở luôn nhà người ta, khỏi tốn tiền là khoái lắm rồi. Vì lần đầu vào học Nha Trang, nên lòng bồn chồn không yên. Tôi bèn từ giả quê, vào sớm hơn nửa tháng, mục đích làm quen với người mới, đất mới, lòng vòng từ Xóm Cồn đến Cầu Đá, Chùa Tỉnh Hội đến Thành... Một ngày đẹp trời, ông chủ nhà nhờ tôi ra Vạn Giả mướn một người giúp việc. Trước khi lên xe, ông vẽ một bản đồ và cách thức đi xe gì, đến nơi nào thì xuống, chổ nào quẹo…

Mang tiếng sẽ là học trò trường Vỏ Tánh mà chưa biết mô tê những vùng lân cận chung quanh Nha Trang, măc dầu một vài lần tự đạp xe vòng hết chổ này đến nơi khác; giống như kẻ “cởi ngựa xem hoa”. Thế cho nên khi đến bến xe, cạnh trường Văn Hóa, gần cầu Hà Ra, tôi ngồi lộn xe lambretta lên Thành. Khi gần đến chùa Tỉnh Hội, chổ đường Phương Sài, tôi mới phát giác là mình lộn xe, lộn đường… lộn hướng! Vội năn nĩ bác tài, xuống xe, trở ngược về bến củ, lần nầy tôi cẩn thận xem bảng chữ trên thành xe. Xe đi ra Vạn Giả không có, chỉ có xe đến Ninh Hòa. Từ Ninh Hòa lại phải lên xe lambretta ra Vạn Giả. Thời gian khoảng những năm 1960, hình như những chiếc xe chạy đường Nha Trang Ninh Hòa thời đó là loại xe Bờ rô (cùng loại xe Phi Long – Tiến Lực chạy đường miền Trung thời 1950-1960) trông cũng dễ coi…

Xe lên đèo Rù Rì với con đường uốn quanh, ngoằn nghèo rất ư là nguy hiểm. Gần đến đỉnh đèo là một cái am nghi ngút khói. Xe dừng lại thắp nhang rồi mới chạy tiếp. Tôi say mê ló đầu ra ngoài, ngó hết cảnh nầy đến cảnh nọ thoắt biến thoắt hiện trước mắt mà không thấy chán! Nhiều chặng bác tài dừng lại cho khách xuống, rước khách lên với tiếng la của anh lơ xe. Khách và hàng hóa chen với nhau cũng thấy vui vui.

Phía trước hai hàng ghế tôi ngồi có bốn thanh niên, khoảng tuổi với tôi, họ đang say sưa kể chuyện phim. Trong không gian hổn tạp, gió bên ngoài đập vào tai vù vù, tiếng mấy bà buôn cá nói về phiên chợ của họ… thì câu chuyện phim lọt vào tai tôi là hấp dẫn nhất! Mấy thanh niên tranh nhau kể về cuốn phim họ đã xem ở rạp Tân Tân trên đường Độc Lập Nha Trang. Họ hăng say tranh nhau kể lại quang cảnh hùng tráng và bi thương trong phim Samson-Dalila:

- Tao khoái anh chàng Samson với sức mạnh vô địch làm cho toàn thể thành quách và kẻ thù bị chôn vùi. Tao mà được như vậy thì tao sẽ…

- Tao thì khác, thương cho nàng Dalila, vì bị mê hoặc, bị mua chuộc hại người mình yêu, để rồi cuối cùng là một thảm họa…

- Không! Nàng không yêu, nàng là con đĩ ngựa!

- Mầy nói quá đáng, đây là một thương tâm lịch sử, thời xưa cũng như thời bây giờ và mãi mãi về sau nầy, đàn ông chúng ta lúc nào cũng lụy vì tình và kẻ thù lúc nào cũng lợi dụng vào chổ yếu đó mà đánh thắng. Trong bài giảng của thầy Đức về lời khuyên của nàng Kiều, nàng bị Hồ Tôn Hiến dụ dổ, vẽ ra cho nàng tương lai tốt đẹp nếu khuyên được Từ Hải ra hàng. Từ Hải vì yêu, nghe lời nàng mà chết đứng. Câu chuyện nầy đâu có khác gì với Samson!

- Mầy phân tích hay lắm. Đây là chuyện thần thoại trong kinh Cựu Ước,nó cũng là bài học quý giá vô cùng thương tâm mà mình phải suy nghĩ… Samson hai lần yêu là hai lần lầm lở, để cuối cùng phải chết vì đôi mắt giai nhân và những lời ngon ngọt…

- Thôi mày ơi! Cái giọng thầy đời của mầy coi chừng tự mình cột mình. Mầy mê con Phương Nga kiểu đó có ngày nó cho mầy leo cây chết còn thảm hơn Samson…

Câu chuyện của bốn gả thanh niên cứ thế lọt vào tai tôi, khiến tôi tò mò. À! Thì ra mình chưa xem phim nầy, thế nào cuối tuần cũng sẽ xem cho biết! Xe bò lên đèo Rọ Tượng. Tôi thôi chú ý câu chuyện phim, đảo mắt nhìn cảnh đẹp thiên nhiên. Hồi đó, Đèo Rọ Tượng cũng rất nguy hiểm, cũng cong queo, xe chạy chậm và khó tránh nhau nếu gặp xe ngược chiều. Buổi trưa hè nắng gắt nóng như lửa.Nhưng một quang cảnh thật đẹp, thật hấp dẫn phía dưới chân đèo Rọ Tượng. Đó là một làng chài lưới dọc theo bờ biển, phía xa, ghe mành và lưới rớ không khác gì ở quê Tam Quan của tôi. Tôi nghe một bà bán cá ngồi bên, dặn bác tài cho xuống ngã ba Tam Ích…

Quốc Lộ Số 1 hồi đó còn rất nhỏ hẹp, ngoằn nghoèo, cánh đồng lúa đứt khoảng giữa những thôn làng ven hai bên đường. Hàng dừa, hàng cau in đậm nét giữa màu xanh của những triền núi thấp xen với mái nhà tranh lụp xụp và lủy tre làng…Họa hoằng lắm mới thấy xuất hiện vài căn nhà ngói đỏ xa xa! Xe chạy chậm qua một ngôi trường, trông bề thế và khang trang, trên cổng trường mang tên “Trung Học Trần Bình Trọng”. Tôi nhướn người, thò đầu ra xem những tà áo dài trắng tung tăng, xen với áo trắng quần xanh trong giờ tan học. Tôi nhớ ngôi trường Tăng Bạt Hổ ở thành phố nhỏ Bồng Sơn. Sao nó giống quá ngôi trường Trần Bình Trọng ở Ninh Hòa! Có thể cách kiến trúc giống nhau, học trò bận đồng phục như nhau… hay vì những tàng dương xỉ xanh, những mái ngói màu đỏ làm tôi xao xuyến nhớ về ngôi trường mình mới vừa từ giả để tìm tương lai nơi quê người…

Mãi nhìn cảnh tan trường, mãi mơ mộng thì xe dừng lại, anh lơ la to: Ninh Hòa bà con ơi…” Thế là tôi cũng lật đật xuống xe. Lớ ngớ nhìn người ta lũ lượt gọi xích lô, lên xe lam đi Dục Mỹ… mà không thấy xe nào đi Vạn Giá! Ngó quanh thấy có một bà to béo ngồi bán bánh căn dưới gốc cây cổ thụ. Chung quanh bà là những ghế thấp sát đất kèm theo mấy cái bàn cũng thấp lè tè, khách ngồi chờ những dĩa bánh nóng, bà mập từ tốn giở vung bằng đất, lấy xĩa xúc bánh căn màu vàng ngậy vào dĩa trao cho từng khách đợi!

Tôi lò dò đến hỏi thăm:

- Thưa bà cho con hỏi thăm xe nào đi Vạn Giã!.

Không những chỉ có bà chủ bán bánh căn, mà hầu hết khách ngồi ăn cũng cùng loạt ngước nhìn tôi. Hóa ra là câu hỏi của tôi đã làm mọi người có mặt ngac nhiên. Có lẽ họ thấy một tên học trò khờ ở đâu xuất hiện hỏi một địa danh mà ở đây ai cũng biết đường đi nẽo về. Tôi ngó tôi và nhìn quanh xem mình có làm gì lạ hay ăn nói vô lễ với mọi người không; sao người ta nhìn mình giống như hiện tượng gì rất lạ, ở đâu hiện ra…

Thay vì bà bán bánh trả lời thì có một ông già ngồi bàn kế bên nhìn tôi lên tiếng:

- Chú em ở đâu đến phải không?

- Dạ! Cháu từ Nha Trang ra. Xin Bác cho cháu hỏi đường đến bến xe ra Vạn Giã!

- Sao chú em không ngồi xe đi luôn tới bến. Ở đó có xe Lam chở chú ra Vạn Giã mà xuống chỗ nầy?

- Dạ! Lần đầu con đến đây nên không biết đường.

- Thôi, lỡ rồi, hãy theo con đường nầy, qua khỏi cầu Dinh, đi một lúc là đến bến xe! ( Vừa nói ông vừa chỉ con đường tráng nhựa trước mặt và hướng qua ngã ba có cái bùng binh… ).

- Cảm ơn ông…

Trời trưa nóng quá, tôi nhìn những người qua đường và nhìn chính mình, mồ hôi ướt cả lưng. Vừa đói vừa khát nước, tôi đi theo hướng ông già chỉ vừa kiếm xem có quán nước hay tiệm ăn để tránh nóng và ăn trưa. Chổ bà bán bánh căn, dưới tàng cây cổ thụ, tuy không nắng nhưng không thể ngồi ở đó vừa hanh nắng vừa bụi xe mù trời.


Băng qua đường, dọc theo con phố có dáng giống như phố Bồng Sơn hay Tam Quan thời trước chiến tranh. Quang cảnh quen thuộc gần như ta không thể nào phân biệt trừ cái tên Ninh Hòa mới toanh trong đầu. Băng qua ngã ba, chính giữa có vòng tròn bùng binh, giữa vòng bùng binh là trụ đèn. Bên góc là loạt công thự, trên cổng là tấm biển lớn: Quận Ninh Hòa. Nơi đây, bắt dầu quốc lộ nối liền miền đồng bằng vời xứ cao nguyên Ban mê Thuột mang tên là QL21.

Dọc theo hàng cây dông đồng tàng lá sum sê, là dãy phố có vẻ khang trang sầm uất kẻ qua người lại, kẻ mua người bán. Tôi bước vào quán ăn mang cái tên cũng ngộ, gây cho trí tưởng tượng tò mò của tôi. Cái tên Hương Giang nằm giữa thành phố nhỏ Ninh Hòa có đông người Hoa, làm tôi nghĩ đến món bún bò Huế!

Nhưng cái không gian và con người - thoáng ý nghĩ của tôi - trong tiệm ăn mang tên rất Việt Nam, tiếng Tàu và tiếng Việt xen nhau! Bên phải, kể từ bên ngoài vào là một nhóm người đang ngồi bàn luận về tình hình xe cộ tuyến đường Ninh Hòa Ban Mê Thuột! Tôi hiểu lơ mơ vì tiếng Việt đôi khi xen vào trong đối thoại bằng tiếng Trung Hoa.

Trong lúc ngồi chờ thức ăn ở một bàn nhỏ trong góc, tôi giật mình thấy bóng một cô gái áo dài trắng thướt tha, mái tóc ngang vai, tay ôm cặp học trò tung tăng chạy thẳng vào trong tiệm. Có thể cô ta học trường Trần Bình Trọng. Không biết cô ta Tàu hay Việt đây, chắc là con chủ tiệm …Tôi đang lơ tơ mơ suy nghĩ thì chính cô ta, trong bộ quần áo ngắn gọn gàng, bưng thức ăn ra để trước mặt tôi. Cô bé độ tuổi mười lăm, em còn rất hồn nhiên, rất… học trò, nói chuyện với những người chung quanh bằng tiếng Việt chứ không phải Tàu như tôi nghĩ!

Ăn xong đĩa cơm sườn, uống ly chanh đá, tôi vội vàng thả bộ dọc theo đường Trần Quý Cáp – Hồi đó cũng là QL1 – để tìm đến bến xe! Tôi có cảm giác lạ khi đi trong lòng phố Ninh Hòa, dọc theo hai bên đường không khác phố Bồng Sơn hay Tam Quan; giống nhau một cách lạ lùng. Tiệm thuốc Bắc, tiệm chạp phô, tiệm ăn, tiệm sửa xe… Tất cả bản hiệu đều mang hai hàng chữ Tàu và Việt. Nhưng ở Ninh Hòa bảng hiệu tiếng Tàu nhiều hơn, cách sinh hoạt Tàu hơn. Ở Tam Quan cũng có chùa Ông, chùa Bà… màu sắc và kiến trúc giống y không khác gì cảnh tôi đang thấy! Cầu bắt qua sông Dinh cũng rất giống cầu Nghị Trân ở phố Tam Quan! Nó chỉ khác nhau là nước ở đây ngọt, nước dưới cầu phố Tam Quan thì mặn.

Lần đầu tiên biết Ninh Hòa chỉ có thế, những hình ảnh lướt qua giống như mình trở về với xứ quê hương của mình. Trong tiềm thức về những lúc đứng trên cầu Nghị Trân nhãy xuống làn nước trong veo hay những khi chèo thuyền đầy những trái dừa, chui qua cầu, đem về sản xuất dầu dừa thời chiến tranh chống Pháp! Nhìn làn nước xanh phía dưới cầu Dinh tôi tưởng như mình đang đứng ở phố Tam Quan…

oOo

Bốn tháng sau, lần thứ hai tôi đến Ninh Hòa là một buổi chiều thứ bảy với thằng bạn học cùng lớp. Bạn cùng lớp Đệ Tam B3 Vỏ Tánh, người Ninh Hòa rất nhiều, nhưng tôi chơi với thằng H, vì nó ngồi bên cạnh và cùng thích đàn hát. Nó còn có sở trường môn thể thao và rất xuất sắc vũ cầu. H có thân hình to cao, ăn mặc chải chuốt. Thời đó mà nó đã biết làm điệu bằng cách uốn tóc quăn, xịt dầu thơm, đi học bằng chiếc xe đạp thứ xịn…! H là một tay vợt có hạng, từng đoạt giải nhiều cuộc thi cấp tỉnh, cấp vùng về môn Vũ cầu thời bấy giờ!

Nhà H ở ngay phía Nam Cầu Dinh, Nhà Sách Trung Thành. Đến Ninh Hòa, xuống xe, hai đứa đi bộ dọc theo con phố có cái tên rất ư là Việt Nam. Đó là đường Trần Quý Cáp. Nhưng hai bên đường, nhà lầu, nhà trệt, cửa hiệu san sát, đa số là người Hoa, bảng hiệu chữ Hoa. Tôi có cảm giác mình đang lạc vào một thành phố đâu đó bên Tàu hay là đang đứng trong lòng phố Chợ Lớn. Thằng bạn tôi chào hết người nầy đến người khác bằng tiếng Hoa. Tôi nghe người ta gọi nó là A Dzìn rồi xí xô xì xà giới thiệu tôi… Trong thời gian tôi ở chơi Ninh Hòa, được có cái tên là A Dzũng!

Buổi trưa tôi được ăn cơm với đại gia đình A Dzìn. Sở dĩ tôi nói là đại gia đình vì nhà đông anh chị em. Bửa cơm mạnh ai nấy đến nồi bới! Đây là tập tục của người Tàu mà tôi có dịp được học hỏi. Tục người Việt là người ngồi gần nồi cơm, phải bới cơm cho những người ngồi xa…Gia đình A Dzìn hiếu khách nên tôi cũng chóng hòa nhập.

Tôi cũng có dịp nhãy xuống dòng sông, bơi lội phía dưới cầu xi măng mang tên Cầu Dinh. A Dzìn vừa bơi bên cạnh tôi, vừa kể cho tôi nghe những chuyện ma trong khu vực… thế nhưng tôi chỉ nghĩ là cậu ta dọa nhát thử sức tôi mà thôi! Chẳng là tôi đang rũ rê H vào sinh hoạt Tráng Đoàn; Trước khi gia nhập, hắn cố tình thử xem Hướng Đạo có can đảm không! Khung cảnh bờ sông, bụi cây, lòng chảo… phía dưới cầu cũng có vẻ sầm uất ma quái lắm…

Chúng tôi đi loanh quanh khu phố chợ đầy hàng quán. Những con dường nhỏ, có chiếc cầu gổ. cảnh chợ tấp nập không kém gì những nơi phồn hoa ở Sai Gòn –Chợ Lớn. Tiếng Hoa, tiếng Việt hòa nhau thành những âm thanh đặc biệt.. phố Tàu!

A Dzìn dắt tôi vào lồng chợ, kéo tôi ngồi xuống hàng nem. Mùi thơm thịt nướng, mùi khói với những tiếng líu lo xung quanh. Lần đầu tiên tôi được thưởng thức món nem đặc biệt Ninh Hòa. Trước hết là những gói nem chua rất đep. Bên trong lá chuối, một lớp lá chùm ruột, bọc kín viên nem lớn hơn ngón tay cái, cuộn tròn giống như con tằm nằm trong kén. Ăn cả lá chùm ruột với nem, nhai dòn rụm những sợi da heo xắt nhỏ, cắn một chút tỏi…cay quá, khà một cái! Có lẽ là lần đầu thưởng thức món lạ miệng nên tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.

Bà Tửu, người ngồi bên bếp than hồng, nướng những que thịt gọi là nem nướng; Mùi thơm bốc lên của thịt và mở cháy, mùi nước xốt sền sệt màu gạch cua… làm nước miếng ứa ra. Hai tay bà thoăn thoắt, trước mặt hai đứa tôi là một đĩa toàn những cuốn nem vừa ra lò đầy nghệ thuật. Bánh tráng, rau thơm, khế, chuối chát, dưa leo, chả ram, mấy cục nem nướng… cuốn lại thật tròn. Cầm lên một cuốn, chấm với nước xốt pha ớt tương… rồi hã to miệng, ngoạm một miếng. Ôi! Lúc đó Thiên Lôi cầm búa đứng bên cũng chẳng thấy!...

oOo

Tưởng chỉ có như vậy là chấm hết! Nhưng số phận không cho câu chuyện chấm hết, nên tôi lại phải kể thêm về Ninh Hòa! Thằng bạn tôi, năm học Đệ Nhị, quen với một nữ sinh lớp Đệ Tam, nhà ở Xóm Bóng, trước Tháp Bà Nha Trang. Thời bấy giờ, con đường từ khu Phước Hải, đạp xe qua Xóm Bóng; phải vượt qua cầu Hà Ra và một đoạn đường đến cầu Bóng không người ở, toàn rừng cây bần cây đước. Anh chàng sợ bất trắc nên muốn rủ tôi đi cùng. Nhưng nếu không có gì hấp dẫn thì có lẽ tôi đã từ chối. Đàng nầy sau lời yêu cầu, tôi lại thích thú theo hắn… qua sông!

Ngày đầu tiên hai đứa tôi đạp xe từ phố Nha Trang qua Xóm Bóng là một tối thứ năm. Nhà cô bạn gái của H nằm trong con hẻm ngay trước Tháp Bà. Buổi tối vừa bắt đầu, cảnh Tháp bà dưới ánh trăng mười ba thật nên thơ… Tôi hào hứng theo chân H dắt xe vào con hẻm. Căn nhà ngói bề thế, có vườn và hàng dừa trỉu trái, có lan can ngồi ngắm trăng bên giếng nước… rất tình!

H giới thiệu tôi với cô bạn gái và một nữ sinh Ninh Hòa ở trọ. Cô bạn gái của H có mái tóc xỏa dài ngang lưng, đứng bên là cô bé có đôi mắt to tròn nhìn tôi mĩm cười! Thoạt gặp nàng, tôi giật mình lục tìm trí nhớ, hình như tôi đã gặp ở đâu đó một lần. Cái dáng nho nhỏ, xinh xinh, mái tóc xõa bờ vai… À! Chính là cô nữ sinh đã đem thức ăn cho tôi trong tiệm Hương Giang ngày nào! A Dzìn đem tôi theo, cố tình giới thiệu tôi với cô bé mới mười lăm tuổi, vào trọ học Đệ Tam. Năm đầu tiên xa mẹ trông cô giống như con nai vàng ngơ ngác giữa… rừng thu!

Rồi ngày tháng dần trôi, cô bé thành phố “Tàu” Ninh Hòa” ngày nào trở thành cô “vợ yêu dấu”, theo tôi suốt những chiến trường xa sau năm năm quen biết. Nàng đã trải bao thử thách cuộc đời khi tôi ngồi tù từ Nam ra Bắc với ba đứa con thơ! H và cô gái Xóm Bóng rồi cũng dắt nhau lên đỉnh tình yêu. H – a Dzìn – và tôi cùng vào khóa 26 SQTB Thủ Đức, cùng đóng quân ở Pleiku, cùng ở tù… sau cùng hai cặp bài trùng cùng định cư ở xứ Cờ Hoa và cũng dung giăng dung dẻ với nhau như thuở còn là học trò!

Bây giờ trong các diễn đàn của Ninh-hòa.com, songdinh.com, Binhhoa.com… và Hội Ninh Hòa Dục Mỹ… Bốn chúng tôi đều có mặt! Xứ Ninh quả thật là một địa danh thần kỳ đầy kỷ niệm của tôi. Nơi ấy cũng đã cho tôi một người bạn đời và những đứa con trong tình yêu toàn mỹ. Cảm ơn Ninh Hòa!

letamanh

Ý kiến bạn đọc
19/06/201601:45:47
Khách
Tuy không phải người Ninh Hoà nhưng bài viết rất lôi cuốn tôi vào câu chuyện...quê vợ của tác giả. Một lối kể chuyện rất có duyên...Bởi có duyên thêm có nợ, mới có ngày hôm nay cau trầu bền bỉ như vầy. Xin cảm ơn và chúc tác giả vui mạnh!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.