(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
PHAN VĂN TRỊ BÚT CHIẾN VỚI TÔN THỌ TƯỜNG
(1830-1910) (1825-1877)
.
Cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường, thời gian từ năm 1862 đến năm 1877, cuộc bút chiến dài đằng đẵng 15 năm, hai bên đã so tài gay gắt vào những năm đầu của thời kỳ này. Tôn Thọ Tường viện dẫn lý do theo giặc Pháp bằng những hình tượng độc đáo. Thơ họa của Phan Văn Trị lại sâu sắc, lập luận vững vàng, thiết tha bảo vệ tổ quốc, khinh kẻ thứ bán nước cầu vinh. Cuộc bút chiến đã lôi cuốn đông đảo sĩ phu Nam Kỳ yêu nước vào cuộc, như: Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu...
.
Phan Văn Trị: Phan Văn Trị là một nhà thơ Việt Nam vào thời kỳ đầu kháng Pháp. Quê ở thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh (nay tỉnh Bến Tre). Ông đỗ Cử nhân năm 1849 (thời vua Tự Đức), từ đấy gọi là Cử Trị. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông không ra làm quan, chấp nhận sống đạm bạc bằng nghề bốc thuốc và dạy học. Ông cảm tác thơ văn bày tỏ tâm huyết yêu nước thương dân hoặc phê phán những kẻ hám danh theo giặc, trong đó có những bài thơ họa với Tôn Thọ Tường, ông đã thẳng thắn vạch mặt kẻ “bán nước cầu vinh” đã theo giặc ngoại xâm.
Đến khi quân Pháp chiếm đóng Nam Kỳ, ông càng cảm tác thơ văn yêu nước nồng nàn. Ông mất ngày 22-6-1910 (16 tháng 5, Canh Tuất) tại làng Nhơn Ái, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc thành phố Cần Thơ). Vào năm 2005, đồng bào tưởng nhớ đến chí sĩ Phan Văn Trị đã xây đền thờ và trùng tu phần mộ của ông, hàng năm đều tổ chức lễ giỗ ông trọng thể. Lòng yêu nước nồng nàn của ông đã bộc lộ thiết tha trong bài thơ “Thất tỉnh Vĩnh Long”:
.
Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.
Uốn khúc sông rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà, cám nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta!.
.
Tôn Thọ Tường: Tôn Thọ Tường là một danh sĩ thời nhà Nguyễn. Ông đã cộng tác với thực dân Pháp nên bị các sĩ phu yêu nước chỉ trích nặng nề. Cha của ông là Tôn Thọ Đức làm quan dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức. Tôn Thọ Tường học tại Huế, có tiếng là văn hay chữ tốt. Năm 1840, cha qua đời, nên việc học của ông bị dở dang, khi ông đã 30 tuổi mà thi cử vẫn chưa đỗ đạt. Năm 1855, Tôn Thọ Tường được tập ấm làm quan, nhưng chỉ được giao một chức quan võ, không hợp với khả năng nên ông từ chối. Do túng quẫn, ông làm bài thi mướn để lấy tiền, bị bại lộ và bị bắt giải về kinh đô Huế. Vua Tự Đức xét đến công lao của cha ông nên tha tội.
.
.
Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông được nhà cầm quyền Pháp đề cử nhận chức tri phủ Tân Bình, nên đương thời gọi là Phủ Ba Tường. Đô đốc Bonard bảo ông dụ hàng Trương Định nhưng không thành. Năm 1863, cử ông làm ký lục trong phái bộ của Phan Thanh Giản sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông. Năm 1867, nhà cầm quyền Pháp phái ông về Ba Tri (Bến Tre) để dụ hàng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cùng hai người con của Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm đều bị thất bại.
.
.
Đến năm 1871, ông được thăng Đốc phủ sứ. Tháng 2 năm 1872, viên chủ quận Vũng Liêm bị nghĩa quân giết chết, ông được cử đến thay. Sau đấy, nhà cầm quyền Pháp đưa ông về dạy Hán văn ở trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires) Nam Kỳ.
Năm 1873, Tôn Thọ Tường cùng phái đoàn Pháp qua nước Tàu 2 tháng. Năm 1875, ông làm việc dưới quyền Tổng lãnh sự Pháp De Kergaradec ở Bắc Kỳ. Năm 1877, ông mắc bệnh sốt rét và qua đời. Cuộc bút chiến giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị có trên 10 bài thơ “Thất ngôn bát cú”. Sau đây, trích đôi bài thơ xướng họa trong 10 bài thơ “Cảm hoài” hay "Giang san ba tỉnh".
Một bài xướng (của Tôn Thọ Tường):
.
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây,
Trời đất xui chi tới nỗi này.
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng văng thầm tính thương đòi chỗ,
Khấp khởi riêng lo biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!
.
Một bài thơ họa "Giang san ba tỉnh" (của Phan Văn Trị):
.
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẳng đã nên ta phải thế này.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá, há lung lay.
.
Bài thơ xướng “Từ Thứ qui Tào” (của Tôn Thọ Tường):
.
Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi,
Muối xát lòng ai, nấy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi !
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!
.
Bài thơ họa “Từ Thứ qui Tào” (của Phan Văn Trị):
.
Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi.
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám,
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi,
Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?!
.
Từ Thứ là người giỏi mưu lược và binh pháp, một nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Khoảng năm 190 (SCN), Thứ đến Tân Dã (nay là một huyện tỉnh Hà Nam) gặp Lưu Bị, làm mưu sĩ để chống Tào. Từ Thứ đã hiến kế cho Lưu Bị đánh bại Tào Nhân là tướng của Tào Tháo, đánh úp chiếm Phàn Thành. Tào Tháo lập mưu bắt mẹ Từ Thứ, Từ mẫu không cộng tác với Tào, mưu sĩ Trình Dục hiến kế giả nét chữ Từ mẫu để viết thư gọi Từ Thứ qui Tào. Thứ tưởng là thư của mẹ gửi nên từ biệt Lưu Bị để về Hứa Xương với Tào. Chúa tôi bịn rịn, Từ Thứ thề suốt đời không hiến kế cho Tào và tiến cử Khổng Minh là người giỏi hơn mình. Liền sau đấy (năm 208), Lưu Bị ba lần đi cầu Khổng Minh (Tam cố mao lư) ở Long Trung nơi phía tây thành Tương Dương. Từ đấy, điển tích “Từ Thứ quy Tào” thường được nhắc nhở.
.
Bài thơ “Tôn Phu nhân qui Thục” nổi tiếng và nhiều người hâm mộ, Lưu Bị muốn dựng lại nhà Hán nên chữ qui Thục có thể hiểu là về Hán.
Bài xướng (của Tôn Thọ Tường):
.
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán, trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông!
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
.
Bài họa “Tôn phu nhân quy Thục” (của Phan Văn Trị):
.
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.
Ngút tỏa đồi Ngô, ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục, đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi! Tôn Quyền, anh có biết?
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
.
Bài thơ “Tôn Phu nhân qui Thục” lấy từ tích truyện Tam quốc Diễn nghĩa, Tôn Phu Nhân là em gái của chúa Đông Ngô Tôn Quyền. Chu Du tự Công Cẩn làm Đô đốc Đông Ngô, hiến kế cho Tôn Quyền giả cầu thân với Lưu Bị để đoạt thành Kinh Châu. Tôn Quyền mời Lưu Bị qua Giang Đông nói là gả em gái để kết tình hữu hảo, lại âm mưu phục binh giết Lưu Bị để đoạt thành. Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị biết rõ mưu mô của Chu Du, dặn Triệu Tử Long khi chúa công (Lưu Bị) đến Đông Ngô cầu hôn thì tung tin ầm lên rằng “Tôn Quyền mời Lưu Hoàng thúc sang gả em gái là Tôn Phu Nhân”. Tin nầy đến tai của Ngô Quốc Thái (mẹ Tôn Quyền). Bà cho gọi Tôn Quyền vào mắng tội lừa đảo, buộc Tôn Quyền phải giữ lời hứa gả em gái cho Lưu Bị. Tôn Phu Nhân không rõ mưu kế của anh và vâng lời mẹ kết hôn với Lưu Bị.
Tôn Quyền xoay qua dùng phú quý mua chuộc Lưu Bị để cầm chân ở lại Đông Ngô. Nhưng danh tướng Triệu Tử Long theo kế sắp sẵn của Khổng Minh đã đưa Lưu Bị, Tôn Phu Nhân và mọi người trở về Kinh Châu an toàn.
.
*-Thiết nghĩ: Cuộc bút chiến quyết liệt giữa hai ý thức chính trị, một bên là lực lượng yêu nước đại diện bởi chí sĩ Phan Văn Trị và bên kia là Tôn Thọ Tường là kẻ theo thực dân Pháp để được “vinh thân phì gia”. Tôn Thọ Tường từng tham gia Bạch Mai thi xã ở Gia Định, sáng tác nhiều thơ văn phong phú, đến khi cuộc bút chiến nổ ra, ông đã viện dẫn những lý do theo Pháp bằng những hình tượng độc đáo. Dù vậy, những bài thơ họa của Phan Văn Trị lập luận rất sắc bén, đanh thép, đập tan luận điệu chạy tội của Tôn Thọ Tường.
.
.
Tôn Thọ Tường hay dùng điển tích của Tàu, dựa vào đấy cảm tác thơ để bào chữa cho hành động theo giặc của mình. Thế nên, trong bài thơ “Từ Thứ qui Tào”, ông muốn ví mình như Từ Thứ, không dám tự phụ “Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi”, ông dùng tích người con chí hiếu là vua Thuấn cày ruộng thuở hàn vi, trời động lòng cho voi cày giúp. Ông muốn nói rằng, ông ra hợp tác với Pháp là ngoài ý muốn và “Ở Hán hãy còn nhiều cột cả. Về Tào chi sá một cây còi!”.
Từ Thứ đã thề không hiến kế cho Tào, lòng luôn nhớ vua Hán “Bịn rịn trông vua biếng giở roi”, ông cũng muốn người đời hiểu như vậy, là ông dù làm việc với Pháp mà không giúp Pháp. Ông đã trơ trẽn lấy vải thưa che mắt thánh?!.
.
Bài thơ “Tôn Phu nhân qui Thục”, Tôn Thọ Tường đã dùng Tôn Phu Nhân nước Ngô theo chồng là trọn đạo “Tòng phu”, Tình và Hiếu khó lưỡng toàn, để biện hộ cho mình đã hợp tác với pháp. Theo ông thì chính sách bảo thủ của nhà Nguyễn khiến cho nước Việt bị điêu đứng?! Từ đấy, để biện bạch rằng ông theo Pháp không vì danh lợi mà muốn sửa sang đất nước trong lúc ngửa nghiêng. Ngay câu đề: “Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng”, ông muốn nói rằng: “Tôn Phu Nhân cầm gươm, lên ngựa lìa Ngô về Thục với Lưu Bị; bà đã ngăn quân Ngô, phá tan mưu kế Chu Du để cứu chồng là lẽ phải, thuận theo giáo lý tam tòng của Khổng-Mạnh:
“Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng”
Tôn Thọ Tường muốn nhắn nhủ Chu Công Cẩn hay ai đấy làm thân con gái phải trọn đạo tòng phu. Ông thân Pháp, có lẽ nghĩ nước Pháp tân tiến, từ đấy nước ta có thể duy tân như Tây phương chăng?. Ông lại dùng một người con gái Giang Đông, để phân trần với các sĩ phu cảm thông hoàn cảnh trớ trêu mà ông ra hợp tác với kẻ thù. Ông đã mượn hình ảnh của một người con gái để biện bạch cho hành động “bán nước cầu vinh” của mình đầy lắt léo và trơ trẽn?!
.
Dù sao, Tôn Thọ Tường đã nhẫn nhục nhận lấy những lời thóa mạ của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu... mà không tìm cách trả thù hay ám hại họ, chứng tỏ ông chưa hoàn toàn mất hẳn lương tâm?! Dẫu ai không có thiện cảm với Tôn Thọ Tường, nhưng khó ai gán ghép được ông là người thô lỗ hay thiếu học?! Tôn Thọ Tường bị khinh khi kẻ quỵ lụy giặc; nhưng riêng về thi tài của ông đáng được người đời trọng nể?! Cuộc bút chiến gay gắt của chí sĩ Phan Văn Trị đã nung nấu lòng quật khởi chống ngoại xâm bằng cách quật ngã Tôn Thọ Tường khi xướng họa.
Dù sao, Tôn Thọ Tường đã nhẫn nhục nhận lấy những lời thóa mạ của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu... mà không tìm cách trả thù hay ám hại họ, chứng tỏ ông chưa hoàn toàn mất hẳn lương tâm?! Dẫu ai không có thiện cảm với Tôn Thọ Tường, nhưng khó ai gán ghép được ông là người thô lỗ hay thiếu học?! Tôn Thọ Tường bị khinh khi kẻ quỵ lụy giặc; nhưng riêng về thi tài của ông đáng được người đời trọng nể?! Cuộc bút chiến gay gắt của chí sĩ Phan Văn Trị đã nung nấu lòng quật khởi chống ngoại xâm bằng cách quật ngã Tôn Thọ Tường khi xướng họa.
Những bài thơ họa của nhà thơ Phan Văn Trị đã tô điểm thêm rực rỡ trang Sử Việt và dòng văn học nước nhà.
.
Cảm khái: Cuộc bút chiến Tôn-Phan
.
Bút chiến Tôn-Phan, lẽ hẳn hoi!
Người lo non nước, kẻ tôi đòi?!
Câu thơ chạy tội, lừa khôn khéo
Ngọn bút trừ gian, đáp rạch ròi?!
Bán nước cầu vinh nhơ nhuốc mãi
Dấn thân cứu quốc thiết tha hoài
Kiên trung, tiết nghĩa lưu tên tuổi
Sao nỡ chôn danh, oan uổng đời!(*)
____________
(*)- Chôn danh: Do câu “Mai cốt bất mai danh” (xương cốt có thể chôn, chứ không chôn danh tiếng, thà chết vẫn giữ danh dự).
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Gửi ý kiến của bạn