Hôm nay,  

Đọc “Lênh Đênh” Của Lưu Na: Thơ Mộng Và Đau Đớn

03/11/201600:00:00(Xem: 6977)

blank
Hình bìa sách “Lênh Đênh”…


Đọc “Lênh Đênh” Của Lưu Na: Thơ Mộng Và Đau Đớn

 

Phan Tấn Hải

 

"Em và chị Như bị hiếp ba bốn chục lần, chúng đã ném chị Như xuống biển, vừa định bắt em theo thì có tàu hàng hải tiến gần nên tụi nó bỏ đi. Lên đảo em xin đi Na Uy chứ không đi Mỹ với anh Tuấn fiancé của em nữa."

Những dòng trên là lời của Phượng nói với Ngà ở trại tỵ nạn, được ghi lại nơi trang 87 trong tác phẩm Lênh Đênh, khi Phượng kể về chiếc ghe vượt biên gặp hải tặc.
  

Và nơi trang 88, tác giả Lưu Na kể về thân phận người phụ nữ Việt:

"Ngà biết từ đây cho đến chết Ngà sẽ không bao giờ trả lời câu hỏi mà tất cả những ai đi vượt biên đều hoặc hỏi thầm hoặc thốt thành câu: có “bị” hải tặc. Nói có là dối mà nói không có tội, tội với Phượng, tội với tất cả những người phụ nữ không may. Tự bao giờ cái may mắn của một vài cá nhân trở nên tội với những người thọ nạn? Người con gái Việt Nam da vàng, tất cả những người phụ nữ vượt biên -- vết chàm đã khắc, màu chàm đã nhuộm, và anh Tuấn, tất cả những Tuấn chàng trai nước Việt, có còn cách nào khác hơn là chúng ta phải xa nhau, để ở mỗi phương trời cách biệt may ra còn có thể sống tiếp. Đêm vẫn trong, chỉ hồn mình đục. Đảo tị nạn không chỉ xóa lối về mà tẩy trắng luôn những tờ hồn trắng, để lại những vết gôm nham nhở xám buồn...."
  

Và như thế, tác phẩm "Lênh Đênh" hình thành. Đó là những dòng chữ đầy sức mạnh.

 

oOo

 

Cũng là chuyện một thời Miền Nam thất thủ, cũng là chuyện sân trường đại học Sài Gòn thuở giao thời dưới quyền cán bộ từ Bắc vào Nam, cũng là những băn khoăn về giá trị của tự do, cũng là chuyện đi ghe vượt biển, cũng là chuyện lên đảo tỵ nạn, cũng là chuyện vào đại học Mỹ, cũng là chuyện đi làm và giao tiếp trong một cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và rồi một vài mối tình tan vỡ. 

Nhiều người cũng đã trải qua hoàn cảnh như thế. Nhưng tác phẩm “Lênh Đênh” của Lưu Na mang sức mạnh rất khác. Từng dòng chữ của tác giả như dường viết trong lặng lẽ, trong cô tịch, nhưng ẩn sau các dòng chữ là nêu lên được những gì rất buồn của kiếp người. Giữa những dòng chữ là nỗi đau của Phượng, là cái chết bi thảm của Như, và là nỗi buồn vĩnh kiếp của Ngà.

Những con tàu bị xô giạt trên các triền sóng. Mạng người mong manh trong giông bão đại dương. Khi cô sinh viên tên Ngà bước lên trại tỵ nạn, cô như bước sang một kiếp khác. Ngà thâm cảm sự may mắn của cô, nhưng được nghe kể về rất nhiều người đã biến mất trên biển, và rồi nghe kể từ các nạn nhân hải tặc.

Những mối tình trong tác phẩm buồn man mác, không thành toàn, hệt như cõi đời đầy hư vỡ này.

Bạn hẳn là đã từng đọc những chuyện tương tự, và có thể bạn cũng đã trải qua các sóng gió, hư vỡ đó.  Thậm chí, có thể bạn đã gian nan hơn cô Ngà, thí dụ, bạn có thể đã trải qua vượt biên đường bộ, đã bị bắt vào tù nhiều lần, đã lặn lội  buôn than trên các chuyến xe lửa Bắc-Nam, hay vân vân.

Nhưng tác phẩm “Lênh Đênh” của Lưu Na rất khác. Văn phong Lưu Na xô đẩy độc giả vào những khung trời cảm xúc. Truyện không phải kể để cho qua. Khi bạn gấp cuốn sách 190 trang lại, sẽ thấy lơ lửng trước mắt, trên  các trang giấy là một thời của Sài Gòn, là tiếng rì rào ven biển quanh các trại tỵ nạn Đông Nam Á, là những chen chúc trong xã hội bận rộn nơi xứ người – và sâu thẳm, là một nỗi buồn của người đã đi thật xa, nhớ nhà, nhớ mẹ và tự băn khoăn về trách nhiệm với quê hương.

Văn của Lưu Na có sức mạnh khác thường như thế.
  

Như trong đoạn văn, nhân vật chính là cô Ngà đứng trong hàng sinh viên ở sân trường, nghe bà Chủ tịch từ Bắc vào tiếp quản, và nghe chị Chánh (sinh viên nằm vùng) nói chuyện và chợt nhớ chuyện má của Ngà kể thời trước 1954 ở Miền Bắc, không khác gì, và hình ảnh trái nghịch giữa ống quần bà cán bộ và các tà áo dài trắng nữ sinh  viên, trích:

"Bà nói giọng Trung, nhưng không phải Huế, thấp và tròn. Tấm áo bà ba bằng vải ny lông in bông với cái quần vải đen dầy mịn như lạc loài giữa rừng áo dài trắng. Có lẽ, phải nói là nó kiêu hãnh một mình giữa rừng tà áo mới đúng. Ống quần của bà lật phật theo làn gió trên đôi guốc gỗ, Ngà ngó xuống mình, ngó chung quanh, có ai thấy khó chịu như Ngà với cái ống quần tới mắt cá ấy? Cùng với cái giọng lanh lảnh, cái ống quần phần phật như vả vào mặt mọi người. Bên cạnh bà chủ tịch thấp tè, chị Chánh đã cao như cao hơn. Chị đứng nghiêng nghiêng đầu, tóc kẹp kéo qua một bên vai áo sơ mi trắng, quần đen. Chị cười cười, nụ cười thật vô tư như những thành tích đấu tranh, những mưu mô lươn lẹo để tồn tại với chính phủ cũ là của một ai đó ba đầu sáu tay. Thật lạ, bà chủ tịch, chị Chánh, hay những anh bộ đội ngơ ngác, tất cả như từ cuốn phim “cộng sản” má kể mấy mươi năm trước, hiện ra sống động. Những khuôn mặt im lìm không biểu lộ gì."(Lênh Đênh, trang 12-13)

 

oOo

 

Văn của Lưu Na cũng nói về những cảnh đời thường nhưng lại cực kỳ thơ mộng.  Và cả đau đớn. Hãy đọc về một ngày mưa, Ngà được thầy Hoà kể về mối tình giữa thầy và chị Phụng, nơi trang 26:

"Một ngày mưa tầm tã Ngà tới lớp thầy Hòa. Thầy đang ân cần chậm nước mưa trên đầu của chị Phụng, người Hoa lai Việt. Chị về rồi, người nhà thầy chửi gióng giả sau bếp, môi thầy mím lại cằm bạnh ra, mặt trắng bệch, con mắt một mí như tóe lửa. Thầy ngồi xuống, nói bằng tiếng Anh, kể với Ngà mối tình với chị Phụng. Ngà nghe tai được tai không, nước mưa dán tóc sát xuống da, Ngà nghe từng giọt nước thấm xuống lòng buốt lạnh, đầu óc váng vất hình ảnh thầy Hòa chậm nhẹ những giọt nước trên tóc chị Phụng. Ngà ra về, nước mưa chảy dọc màng tang nhiễu xuống cổ áo. Có bàn tay nào cho Ngà."
  

Bạn có thể đọc đi, đọc lại… Văn Lưu Na đẹp như thơ, trong một cảnh cực kỳ hiện thực: thầy Hòa chậm nước mưa trên đầu chị Phụng, khi chị về rồi, tiếng chửi vọng từ sau nhà, thầy phải dùng tiếng Anh kể cho Ngà nghe tình của thầy với chị Phụng, và từng giọt nước mưa ngấm buốt vào lòng Ngà… Bạn hãy hình dung, khi cảnh này nếu đưa vào phim… chúng ta sẽ cảm nhận được nước mưa ngấm cả hơi lạnh trong suốt cõi tử sinh đời người.

Vận mệnh nào cho dân tộc Việt Nam, khi những đôi dép râu bước khắp đường phố Sài Gòn?

Có phải vì trời quá cao, nên không nghe được tiếng dân kêu? Hay vì trời quá thấp, nên mọi chuyện hóa ra chật chội, đổ vỡ?
  

Tác giả Lưu Na kể về những mảng đời của dân Sài Gòn hệt như các tấm nhôm bị dép râu đạp lên, méo mó, dị hình:

"Ngà từ giã anh Quang ở bùng binh Sài Gòn, ngước mắt nhìn trời. Trời thấp quá, đè bẹp mọi cái thau nhôm to nhỏ thành những miếng nhôm phẳng méo mó dị hình rồi những bước dép râu đạp lên, chà nghiến những miếng nhôm ấy lên mặt đường khô lồi lõm gập ghềnh. Khi Ngà về đến nhà, tấm thân nhôm mỏng đã thủng thêm vài lỗ."(Lênh Đênh, trang 42)
  

Và thử hỏi, làm cách nào có thể ghi lại nỗi nhớ? Thí dụ, nỗi nhớ má? Tác giả Lưu Na ghi rằng nhân vật Ngà nằm trên đảo chờ tỵ nạn, có những đêm nhớ má, và quặn thắt khi thấy đời mình như con nước trôi xa. Như nơi trang 78-79:

"Đêm hằng đêm Ngà thèm mơ thấy Má, thấy lại mái nhà xưa, thấy lại cả những con người mình hằng ghét bỏ, mà họ bặt tăm, mà đời sống bặt tăm. Tại sao Ngà lại ở chốn này, sao Ngà vẫn sống khi gốc rễ của mình đã tan biến? Sông khi đổ ra biển thì con nước tan vào biển cả nhưng ngọn nguồn lòng bãi vẫn còn dạng hình dấu vết, mà những thân phận con người ra đi lại trở thành con nước bơ vơ không nhập được với đại dương nào trong khi cái nôi hứng đỡ đã một khắc một giờ bị xóa. Nước đi là nước không về. Nước chi là nước giữa trời."

 

oOo

 

Tác phẩm Lênh Đênh cũng ghi về một kỷ niệm thơ mộng trên đảo của Ngà, với Bách, một chàng trai hướng dẫn thiếu nhi thánh thể. Nhiều thập niên sau, Ngà gặp lại Bách tại Quận Cam, khi Bách đã trở thành một linh mục từ một tiểu bang xa, đang ghé thăm Quận Cam.
  

Và sau đây là những dòng văn rất đẹp của tác giả Lưu Na, khi ghi lại cảm xúc của Ngà bâng khuâng khi gặp lại Bách:

"Cuộc sống như sóng dồn, đẩy tấm thuyền bé ngày một xa khơi qua muôn khúc quanh qua ngàn dòng nước. Ngà và Bách đã dạt khỏi nhau như một giấc mơ tỉnh dậy là quên hết. Mọi sự đều có thể và đều không có thể, trăng còn mãi với thời gian nhưng làm sao để có lại một lần cái màu xám bạc hoang liêu. Gặp lại Bách như gặp lại một mảnh đời thất lạc. Gặp lại Bách như tìm thấy bóng mình của thuở đầu đời. Gặp lại Bách như đã đi hết một vòng của cuộc sống. Ngà nhận ra mình vẫn nhớ bờ môi ấy. Ngà nhận ra mình vẫn nhớ hơi ấm của bàn tay xưa.

Vành môi cũ nay ban lời Chúa. Bàn tay xưa nay mở ra phúc âm. Ta là khởi đầu và cũng là kết thúc. Hết một vòng đời Bách rồi đã đến thiên đường, chỉ còn Ngà đứng trên kỷ niệm xưa nhìn lại tháng năm, thấy quãng đời đã qua chỉ là vết đau dài." (Lênh Đênh, trang 187)
  

Và đó cũng là những dòng cuối truyện. Sách khép lại, nhưng vết đau dài chưa dứt.

Đọc xong những dòng cuối truyện, tôi ước mơ phải chi tác giả Lưu Na viết bằng tiếng Anh, để thế hệ trẻ hiểu được và cảm nhận được những nỗi đau đớn của những người bước lên ghe ra đi. Chân bước đi, cũng như con nước rời xa, vô định. Những gì còn lại sẽ là những dòng chữ của Lưu Na, thơ mộng và đau đớn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.