Hôm nay,  

Tưởng niệm: về thăm Fort Chaffee sau 42 năm

13/03/201709:35:10(Xem: 10260)

Tưởng niệm: về thăm Fort Chaffee sau 42 năm
 

Nguyễn-Lâm Kim Oanh & Nguyễn Viết Kim
(bài viết & hình ảnh)
 

Thấm thoát người Việt tị nạn có mặt trên đất Hoa Kỳ đã gần 42 năm. Cứ mỗi năm gần tới khoảng thời gian Tháng Tư Đen là ký ức tự động nhớ lại những diễn tiến cuối cùng ở quê nhà. Thêm vào đó, chúng tôi vừa được dịp về thăm lại trại tị nạn mà gia đình đã định cư khi mới bước chân lên đất Mỹ làm sự tưởng nhớ càng gần gũi hơn. Khoảng thời gian này, cách đây 42 năm (1975), đánh dấu những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà. Những trận đánh bắt đầu tại Ban Mê Thuật thuộc vùng 2 chiến thuật (Mar 10, 1975), đưa đến việc triệt thoái quân đoàn hai. Tại vùng địa đầu giới tuyến, Huế và Đà Nẵng thuộc vùng 1 chiến thuật, phải di tản vào các ngày cuối tháng 3 (25/3, 28/3). Xuân Lộc bỏ ngỏ ngày 20 tháng 4. Tại Sài gòn, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4, phó tổng thống Trần Văn Hương thay thế, và vào ngày 28 nhường chức vụ tổng thống cho đại tướng Dương Văn Minh sau một phiên họp khẩn cấp tại Quốc Hội với sự chấp thuận của Hạ Viện và Thượng Viện (một số các dân biểu và nghị sĩ còn ở Saigon). Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì lịch sử sang trang. Tại nội địa Hoa Kỳ, 4 trại tiếp cư được tạo dựng cấp tốc để chuẩn bị đón đồng bào tỵ nạn, mới đầu được tiếp nhận tại căn cứ Subic và Clark (Phi Luật Tân), đảo Guam ...Đó là Camp Pendleton, California (April 29), Fort Chaffee, Arkansas (May 2), Eglin Air Force Base, Florida (May 4), Fort Indiantown Gap, Pennsylvania (May 28). Quốc Hội thứ 94 của Hoa Kỳ chấp thuận Đạo luật Indochina Migration and Refugee Assistance Act vào ngày 23 tháng 5 năm 1975, dành ngân khoản cho 130,000 đồng hương ty nạn, và chấp thuận cho dễ dàng trở thành thường trú nhân.
 blank

H1: Tiến sĩ Nguyễn-Lâm Kim Oanh tiến sĩ phó khoa trưởng Janet Penner-Williams đứng giữa và ở hai bên là nhân viên phụ trách điều khiển hội thảo chuyên môn Ninth Annual ESL Symposium, đại học Arkansas, Fayetteville
 

Nhân dịp đại học Arkansas, phân khoa giáo dục và y tế, tổ chức buổi hội thảo lần thứ 9 về việc giảng huấn Anh Ngữ là ngôn ngữ thứ hai (cho các người mới định cư) The Ninth Annual ESL (English as a Second Language) Symposium, chúng tôi có dịp về thăm lại Fort Chaffee, nơi bắt đầu cuộc sống tại Hoa Kỳ của khoảng 51,000 đồng hương gốc Việt. Bà phó khoa truởng (senior associate dean), tiến sĩ Janet Penner-Williams rất để ý đến việc giáo dục sinh ngữ này với một sự giúp đỡ nhiệt tình, giáo sư Nguyễn Lâm Kim Oanh được mời làm diễn giả chính (keynote speaker) với phần chia sẻ tiến trình, từ kinh nghiệm một học sinh tỵ nạn không biết đến một chữ tiếng Anh, đến khi ra trường, tìm dạy các học sinh phải phấn đấu với Anh Ngữ như bản thân mình ngày xưa và sau đó trở thành một giáo sư chuyên môn đào tạo các giáo chức chuyên lo cho học sinh da màu, học sinh mới nhập cư và hiện tại là người xem xét các chính sách liên bang ảnh hưởng tới giáo dục học sinh và giáo viên cho các chương trình này. Sau phần trình bày chuyên môn, giáo sư KimOanh giới thiệu các tài liệu giáo dục vừa được soạn thảo của bộ giáo dục liên bang nhằm giúp các học khu đáp ứng nhu cầu giáo dục của các học sinh da màu và mới nhập cư. Buổi nói chuyện của giáo sư Kim Oanh được các thầy cô giáo và nhân viên lãnh đạo các học khu thích thú theo dõi vì các kinh nghiệm bản thân của diễn giả vẫn còn phản ảnh những thực tại của các học sinh mới đến Hoa Kỳ hiện nay. Ban tổ chức đã đặt tên bài nói chuyện LESS to MORE (the journey from Limited English Speaking Student (LESS) to Multicultural program director for the Office of English language acquisition, the story of a Refugee and immigrant Educator (MORE): hành trình của một học sinh với khả năng Anh Ngữ giới hạn, tới giám đốc chương trình đa văn hoá thuộc tổng nha trong bộ giáo dục liên bang có nhiệm vụ giúp đỡ học trình Anh Ngữ, câu truyện của một người ty nạn đi vào giáo dục giúp sự định cư).
 
Trong một sự tình cờ, nói chuyện với bà phó khoa truởng Janet Penner-Williams khi gặp bà tại một buổi họp ở Hoa Thịnh Đốn, giáo sư chúng tôi được biết bà làm việc tại đại học Arkansas (University of Arkansas) và nói là tôi rất muốn đến tiểu bang đó mà chưa có dịp mặc dầu đã đi qua rất nhiều tiểu bang khác. Chúng tôi tâm sự là gia đình vào cuối tháng 4 năm 1975 đã trở thành người tị nạn và sau đó được định cư ở HK – Fort Chaffee ở tiểu bang Arkansas là nơi gia đình chúng tôi đặt chân đến đầu tiên trên đất Hoa Kỳ mà cho đến nay tôi chưa từng có dịp trở lại. Sau đó không lâu, tôi nhận được thư mời nói chuyện cho buổi hội nghị tại trường đại học Univeristy of Arkansas. Một trong những "hứa hẹn" bà phó khoa truởng Janet Penner-Williams nói với tôi khi mời tới đại học thuyết trình là sẽ cho tôi đi thăm Fort Chaffee. Hơn bốn thập niên mới có dịp quay về chốn cũ nên rất bồi hồi, loay hoay về việc mua vé phi cơ, chúng tôi đã mua vé về thành phố Little Rock, phi trường Bill and Hillary Clinton National Airport thay vì đến thành phố Fayetteville, nơi sẽ có cuộc hội thảo, hai thành phố cách nhau gần 190 dặm và cần khoảng 3 giờ lái xe. Phi trường được đặt tên như vậy để ghi nhớ ông bà Clinton. Ông Bill Clinton sinh năm 1946, là bộ trưởng tư pháp (dân cử) thứ năm mươi, ( Arkansas 50th Attorney General from 1977 to 1979), thống đốc thứ bốn mươi, (the 40th Governor of Arkansas from 1979 to 1981), sau đó thất cử, rồi trở thành thống đốc thứ bốn mươi hai, (the 42nd Governor from 1983 to Dec 1992) và thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1992, trở thành tổng thống Mỹ thứ 42 (the 42nd President of the United States from 1993 to 2001).
 
Sau khi đến nơi chúng tôi được bà tiến sĩ Janet Penner-Williams và phu quân lái xe đến thành phố Fort Smith cách đó khoảng hơn 50 miles về phía Nam, nơi có Fort Chaffee để thăm lại nói đặt chân đầu tiên tới Hoa Kỳ và sống vài tháng trước khi xuất trại và bắt đầu cuộc sống tại xứ sở này. Qua sự dẫn giải của ông Jeff Williams và ông Bill Buchanan, người trông coi bảo tàng viện của trại Fort Smith, chúng tôi hiểu rõ hơn lịch sử của Fort Chaffee.


 
Fort Chaffee có tên khởi đầu là Camp Chaffee. Thiếu tướng Adna R. Chaffee Jr., là một sĩ quan pháo binh của quân đội Hoa Kỳ và trong Thế Chiến thứ nhất tại Âu Châu đã có nhận định viễn kiến là kỵ binh đã lỗi thời và phải thay bằng chiến xa cơ giới. Camp Chaffee được bắt đầu tạo dựng vào September 20, 1941, khi Bộ Chiến Tranh (Department of War) là tên cũ của Bộ Quốc Phòng (Department of Defense) chuẩn bị phát triển quân lực trước viễn ảnh tham chiến vào Thế Chiến thứ hai. Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng December 7, 1941, trại bắt đầu nhận các tân binh và là nơi huấn luyện các sư đoàn chiến xa cho đến năm 1946. Sau đó là hậu cứ của một sư đoàn cơ giới. Tới ngày 21 tháng 3 năm 1956 thì Camp Chaffee được đổi tên thành Fort Chaffee và trở nên một cơ sở quân sự cơ hữu của lực lượng quân sự tiểu bang, Arkansas National Guard. Trong lịch sử của Fort Chaffee, vì là trung tâm nhập ngũ nên khi danh ca Elvis Presley đến trình diện để chuẩn bị phục vụ quân dịch thì nơi đây nổi tiếng được báo chí truyền hình nhắc đến và loan tin trong 4 ngày vào March 1958, cho tới khi danh ca nầy chuyển trại đi thụ huấn quân sự.

blank
 blank
blank

H2: Quang cảnh trại Fort Chaffee ngày nầy March 2017 và vào năm 1975 khi các quân nhân Hoa Kỳ phụ giúp đồng bào ty nạn

Fort Chaffee có một lịch sử lâu dài phục vụ cho các nhu cầu nhân bản:
- 1943 -1945 là trung tâm tiếp nhận 3,000 tù binh quân đội Đức Quốc trong thế chiến thứ hai
- 1975 -1976 là một trong 4 trung tâm chính tiếp nhận khoảng 51,000 người ty nạn gốc Việt và Cao Miên
- 1980 -1981 trung tâm tiếp nhận người ty nạn gốc Cuba, khoảng 26,000 người Cuban refugees.
- Tháng 9 năm 2005, Fort Chaffee là nơi định cư cho nạn nhân cơn bão Hurricane Katrina, là nơi tiếp nhận và giúp đỡ trên 10,000 người từ Louisiana, Mississippi, Texas, và các nơi khác bị ảnh hưởng bởi thiên tai này.

Chúng tôi được ông Bill Buchanan, người quản thủ cho thăm hai barracks của trại Fort Chaffee hiện tại được dùng làm Bảo Tàng Viện giữ lại nhiều di tích và vật liệu phản ảnh lịch sử của trại từ lúc bắt đâu là nơi nhận các tù binh Đức Quốc, cho đến khi là trại tị nạn cho đồng bào Việt Nam và tiếp theo đó là trại tị nạn cho người Cuban. Qua sự trao đổi thì chúng tôi nhận xét và cảm nhận được là người Việt tị nạn được một cảm tình rất sâu đậm của đồng bào trong vùng lân cận; do đó một số đồng hương gốc Việt sau khi xuất trại đã định cư tại đó, hiện tại thuộc thành phố Fort Smith. Năm năm sau khi trại Fort Chaffee tiễn người Việt tị nạn ra khỏi trại và đóng cửa vào tháng 12 năm 1975 thì năm 1980, trại Fort Chaffee lại mở cửa đón nhận người tị nạn gốc Cuba. Tuy nhiên trong thời gian ở trại, các người gốc Cuba đã nổi loạn trong trại và vì việc này khi tái tranh cử sau nhiệm kỳ đầu, thống đốc Clinton đã thất cử và vào nhiệm kỳ tiếp nối 2 năm sau mới thắng cử trở lại

Có một tờ báo được xuất bản trong Fort Chaffee có tên là Tân Dân (công dân mới), theo cựu đại úy Nguyễn Đức Nam, lúc đó đang tu nghiệp tại Hoa Kỳ cho biết thì ông được lệnh di chuyển cấp tốc về Fort Chaffee, vì là một nhà văn đã thành danh (tiểu thuyết Những Thần Tượng Mới, phụ trách chương trình Bé Ngôn Bé Luận, Mai Bê Bi của nhật báo Ngôn Luận, Chính Luận thập niên 60, trước khi nhập ngũ rồi sau đó du học tại Mỹ) ông được giao phó phụ trách thông tin báo chí cho trại.

blank
blank
blank
H3: Những hình ảnh được lưu lại trong trại, tiến sĩ Nguyễn-Lâm Kim Oanh (right) & Nguyễn Viết Kim (left) trước một tấm bảng chỉ dẫn trong trại năm 1975.


Gia đình chúng tôi cũng như bao nhiêu gia đình tị nạn cộng sản đến Hoa Kỳ năm 1975 sau đó đi định cư ở bất cứ một nơi nào có người bảo trợ. Thời gian ở trại tị nạn trên đất HK tuy tương lai bấp bênh vẫn để lại một ấn tượng đẹp trong ký ức của nhiều người. Sau những ngày lênh đênh trên biển cả như gia đình chúng tôi rời Việt Nam trên một chiến hạm Hải Quân VNCH, và những ngày hoang mang ở hai trại tiếp cư Subic Bay và Guam, thì những trại tị nạn ở Hoa Kỳ là một khởi đầu khả quan cho một cuộc đời mới. Khi nhắc tới thời gian ở trại Fort Chaffee với một số người đã từng sống ở đây, họ cũng có những ký ức đẹp nhắc tới sự giúp đỡ tận tình của những nhân viên làm trong trại – từ người lo những bữa cơm cho người tị nạn sắp hàng đi ăn một ngày 3 bữa cho đến những người dạy Anh Văn cấp tốc để chuẩn bị cho người tị nạn hoà nhập xã hội Hoa Kỳ và các nhân viên lo thủ tục hành chánh để tìm người bảo lãnh cho chúng tôi. Tất cả đều làm việc tận tình và tích cực để giúp người tị nạn Việt Nam lúc ấy. Có những tổ chức quyên góp áo quần và đồ chơi đem vào trại cho chúng tôi. Có những nhóm vào tổ chức các cuộc chơi và sinh hoạt cho trẻ em. Có những người tình nguyện vào dạy học hoặc dạy nghề cho chúng tôi. Nếu như người Việt tị nầy thời ấy gặp phải bối cảnh chính trị chống đối và từ chối giúp đỡ như hiện tại thì chắc chắn đời sống mới và những bước đầu của người Việt tị nạn sẽ khó khăn hơn gấp bội. Chính vì sự phụ giúp của những chính sách này mà người dân của đợt tị nạn 1975 đã vững mạnh để đủ sức tiếp tay giúp đỡ những đợt người Việt tị nạn tiếp theo qua các thập niên 80 và 90 cho tới khi có những chương trình chính thức của chính phủ liên bang Hoa Kỳ như ODP và HO. Cho tới nay thì sự đóng góp lại của người Mỹ gốc Việt khắp nơi trên Hoa Kỳ trị giá gấp bội những sự cứu trợ và trợ giúp cho đồng bào tị nạn Việt Nam. Ai qua tới HK cũng hiểu giá trị của cơ hội và tận tâm tận lực xây dựng một cuộc sống mới.


Cuộc đi thăm lại trại tị nạn Fort Chaffee đã để lại cho chúng tôi hai cảm xúc, một là lòng biết ơn sâu xa đến người Hoa Kỳ và chính sách tị nạn lúc ấy, hai là niềm tin vào tiềm năng của người di dân, bất cứ từ đâu đến. Họ là những người có nhiều động lực nhất để tiếp nối đóng góp và xây dựng giúp nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ tiếp tục bành trướng.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.