Hôm nay,  

Mối Lo Từ Trung Quốc

3/1/200500:00:00(View: 13728)
Khi vận động tranh cử hôm Thứ Hai 28, Bộ trưởng Kinh tế Anh Gordon Brown trấn an rằng Anh có khả năng ứng phó với thách đố kinh tế từ các nước đang phát triển như Trung Quốc hay Ấn Độ. Còn VN ra sao"
Đài RFA trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa trong mục chuyên đề hàng tuần do Việt Long thực hiện như sau.
Hỏi: Thưa ông, sau khi thăm viếng Trung Quốc trở về, hôm qua, ngày 28 tháng Hai, Tổng trưởng Kinh tế Tài chính Anh là ông Gordon Brown đã nói đến sự thách đố của các nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc hay Ấn Độ đối với kinh tế Anh. Trước đó, ngày Chủ Nhật 27, nhật báo tài chính có uy tín của Anh quốc là tờ Financial Times cũng có một bài nhận định về sức mạnh kinh tế của Trung Quốc so với Ấn Độ. Và Chủ Nhật tuần qua sang tuần tới, trong mục “Tư duy Thế kỷ”, chương trình Việt ngữ của đài BBC cũng có phỏng vấn chính ông về kinh tế Trung Quốc. Dường như ông có một nhận định không mấy lạc quan về nền kinh tế đó. Theo lời yêu cầu của nhiều thính giả, chúng tôi xin đề nghị chúng ta cùng trao đổi về đề tài này trong mục chuyên đề kinh tế hôm nay....
-- Thưa vâng, dù đây là một trong rất nhiều lần mà ta cùng đề cập tới những gì có thể xảy ra từ Trung Quốc. Trước tiên, tôi xin được đề nghị là ta cùng xét tới vấn đề ấy trong một viễn cảnh dài. Từ 1980 đến 2003, tức là từ khi Đặng Tiểu Bình đề xướng cải cách kinh tế đến gần đây thì kinh tế Trung Quốc đã có mức tăng trưởng bình quân là 9,5% một năm, theo lượng định của tờ Financial Times, và với dân số một tỷ ba trăm triệu, sự kiện ấy tất nhiên phải làm thay đổi tương quan kinh tế và nhận thức chính trị của thế giới vì có nghĩa là cứ hơn bảy năm thì sức mạnh kinh tế Trung Quốc lại tăng gấp đôi. Một quốc gia như Singapore hay cả Việt Nam mà có tốc độ tăng trưởng cỡ ấy thì chẳng làm thế giới e ngại chứ một nước đông dân và có nhiều tham vọng hay ảo tưởng như Trung Quốc tất phải là mối quan tâm, nhất là cho các chính trị gia, khi cần trấn an quần chúng của mình.
Tuy nhiên, cũng trong một viễn cảnh dài, mình cần đặt vấn đề vào đúng vị trí của nó. Tôi thiển nghĩ là trên đại thể, với lợi tức bình quân một đầu người là một ngàn đô la Mỹ một năm thì nền kinh tế hơn một ngàn triệu dân của Hoa lục có thể là một hy vọng hay đe dọa cho các nước, nhưng nền kinh tế ấy cũng có cả triệu vấn đề mà chúng ta nên nhìn ra trước.
Hỏi: Nói cách khác, ông cho rằng các vấn đề có thể xảy ra tại Trung Quốc mới đáng lo"
-- Thưa đúng vậy, ta đang gặp một hiện tượng tâm lý dễ hiểu là mình ưa dự báo tương lai theo thế tĩnh, bằng cách vạch ra đường thẳng từ quá khứ đến tương lai. Nói cho dễ nhớ thì khi Trung Quốc bắt đầu cải tổ, kể từ cuối năm 1978 trở đi, dư luận thế giới chỉ nhìn thấy sự lớn mạnh của kinh tế Nhật Bản. Tại Hoa Kỳ, trong thập niên 80, dư luận còn nói đến mối đe dọa của Nhật, thậm chí đã có một phong trào chống Nhật nổi lên tại Mỹ. Giới chính trị, truyền thông và cả phim ảnh Hoa Kỳ đã báo động về sức bành trướng của Nhật, khiến tư bản Nhật trở thành chủ nợ, chủ đất và chủ đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ...
Hỏi: Như dư luận Anh ngày nay đang nói về Trung Quốc" Thế rồi sau đó ra sao"
-- Chưa đầy 10 năm sau, Nhật bị khủng hoảng, và từ đó đến nay đã qua năm trận suy trầm kinh tế, lần cuối đang xảy ra ngay trước mắt. Sau vụ khủng hoảng, các chủ nợ chủ đất Nhật bán rẻ tất cả cho Mỹ và bỏ của chạy lấy người, và dư luận lại nói đến âm mưu của tư bản Mỹ hoặc chỉ nhìn thấy sự sụp đổ đồng thời của Liên xô. Thực ra, khủng hoảng sau vụ bể bóng đầu tư tại Nhật khiến nội các Kiichi Miyazawa của đảng Tự do bị đổ năm 1993 sau 38 năm cầm quyền liên tục tưởng như vĩnh viễn của đảng. May là Nhật là một xứ dân chủ nên khủng hoảng kinh tế chỉ dẫn tới thay đổi chính trị ôn hoà qua bầu cử. Ngày nay, truyền thông Mỹ hết báo động về hiểm họa Nhật Bản và còn ca tụng thế hợp tác Mỹ-Nhật trước mối họa Trung Quốc.
Thế rồi, cũng tại Á Châu, sau hai chục năm tăng trưởng được thế giới ngợi ca là “phép lạ kinh tế Đông Á”, khu vực này bị khủng hoảng năm 1997, hàng loạt chính quyền bị đào thải, từ Nam Hàn đến Thái Lan, Indonesia hay Philippines. Sau hai đợt chấn động ấy - tại Nhật vào năm 1990 rồi tại năm nước Đông Á vào năm 1997 – ta có thể sẽ gặp đợt thứ ba, từ cuối năm nay, tại Trung Quốc. Nhưng khác với các nước kia, xứ này chưa có tập quán dân chủ và chấn động kinh tế có thể trở thành khủng hoảng chính trị ở trong và đe dọa quân sự đối với bên ngoài. Vì vậy tôi không mấy tin vào triển vọng kinh tế Trung Quốc như vài giới chức Hà Nội, họ cứ lầm tưởng rằng học đòi theo Bắc Kinh là hay, hoặc viện dẫn trường hợp Trung Quốc như một sự kỳ diệu của giải pháp Việt Nam đang theo đuổi.
Hỏi: Trên diễn đàn này, ông thường nói về nhân và duyên trong kinh tế, vì sao ông cho là kinh tế Trung Quốc có thể bị khủng hoảng, mà lại có thể bị trong năm nay" Nếu đúng vậy thì giới lãnh đạo Bắc Kinh hay thế giới, và kể cả các nhà đầu tư, không biết sao"

-- Tôi thiển nghĩ rằng biết là một chuyện, làm là một chuyện và nói ra lại là chuyện khác! Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể đầy tính thời sự kinh tế. Thứ Năm 24 tuần qua, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tức là ngân hàng trung ương của xứ này, đã loan báo là ngạch số ngoại trái – là vay mượn nước ngoài - của các doanh nghiệp Trung Quốc đã tăng gần 20% trong năm 2004 vừa qua, trong đó có đà gia tăng đến hơn 30% của các khoản nợ ngắn hạn dưới một năm, tổng cộng là gần 230 tỷ Mỹ kim. So với khối dự trữ ngoại tệ ở khoảng 610 tỷ của ngân hàng nhà nước vào đầu năm nay thì số nợ ấy chả có gì đáng lo.
Sự thật lại rắc rối hơn vậy. Chúng ta biết vì có nói nhiều lần trên diễn đàn này là Bắc Kinh đang cần hạ nhiệt bộ máy sản xuất vì e sợ nguy cơ lạm phát và động loạn xã hội. Vì vậy, cách đây một năm, ngày 24 tháng Ba, Trung Quốc nâng mức dự trữ pháp định của các ngân hàng từ 7% lên 7,5% mà không có kết quả. Cuối tháng Tư năm ngoái, họ bèn có quyết định thuộc diện hành chính hơn là ngân hàng, là cấm cho vay thêm, thuộc bất cứ diện gì cho đến mùng tám Tháng Năm. Quyết định ấy cho thấy sự bất lực của khả năng điều tiết bằng khí cụ ngân hàng. Và đến đầu năm nay, Cục Thống kê cho biết là đà tăng trưởng của quý bốn năm ngoái, quy ra toàn năm, là 9,5%, so với 9,1% của năm 2003. Tức là không giảm mà còn tăng! Lý do là đầu tư vẫn tăng đều và bộ máy quản lý hay ngân hàng chẳng điều tiết được gì. Bây giờ, doanh nghiệp của họ còn bung ra vay mượn nước ngoài - chủ yếu là vay ngắn hạn để xuất khẩu – ta thấy tái diễn mối họa Đông Á cũ.
Hỏi: Nhưng dù sao, như chính ông vừa cho biết, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc lên tới 610 tỷ, thì có mắc nợ 230 tỷ cũng không phải là lớn.
-- Thưa vâng, nếu ta không kể thêm là tổng số nợ xấu, khó đòi và có thể mất của hệ thống ngân hàng Trung Quốc nay đã vượt 500 tỷ Mỹ kim. Ngân hàng thương mại Trung Quốc, do nhà nước quản lý, huy động mức tiết kiệm rất cao của dân chúng Hoa lục để chủ yếu tài trợ cho các doanh nghiệp cũng do nhà nước quản lý, theo diện gọi là chính sách, bất kể tới khả năng quản trị hay mức lời lỗ rủi ro của các doanh nghiệp này. Nếu tính thêm các khoản bù lỗ về lề lối quản lý ấy thì ngân sách quốc gia của Trung Quốc có thể bị thâm hụt đến 18%. Vì vậy mà hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp của họ chỉ là một lâu đài xây trên cát – không khác gì của Việt Nam – và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, nhất là khi giới đầu tư nản chí mà triệt thoái khỏi Hoa lục, như trường hợp đã xảy ra tại Đông Á trước đấy. Sau khi hồ hởi sảng vì lạc quan không cơ sở đến nỗi thổi lên một trái bóng đầu cơ, các chủ đầu tư và chủ nợ nước ngoài sẽ hốt hoảng tháo chạy là điều đang bắt đầu xảy ra, và khủng hoảng có thể bùng nổ, là điều ta có thể thấy năm nay.
Hỏi: Trở lại chuyện nhân và duyên trong kinh tế, vì sao lại có cơ sự ấy và lại bùng nổ trong năm nay"
-- Về cái nhân thì Trung Quốc - và cả Việt Nam nữa - chẳng có gì sáng tạo độc đáo, vì vẫn đi theo chiến lược phát triển Đông Á, lấy xuất nhập khẩu làm đầu máy tăng trưởng, lấy đầu tư nước ngoài và cả nguyên vật liệu lẫn công nghệ và kiến năng của nước ngoài làm sức đẩy, với sự yểm trợ của guồng máy nhà nước. Chiến lược ấy dẫn tới việc nín thở xuất khẩu để chinh phục thị phần mà bất kể lời lãi, đầu tư thả giàn mà bất kể rủi ro. Sau cùng, chiến lược ấy cũng dẫn đến những chứng tật Đông Á là nạn tham ô và cấu kết.
Nhưng, điều sáng tạo tai hại của cả Việt Nam và Trung Quốc là đi theo chiến lược đã phá sản của Đông Á, với những tàn dư về lý luận xã hội chủ nghĩa. Mô thức gọi là “kinh tế thị trường theo màu sắc Trung Quốc” hay “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của lãnh đạo Hà nội chỉ là chiến lược Đông Á màu hồng, với những chứng tật cố hữu như bao cấp, tham nhũng và quản lý kinh doanh bất kể rủi ro hay lời lỗ.
Hỏi: Và theo ông, tình trạng này sẽ không thể kéo dài" Sau đó tình hình sẽ ra sao"
-- Bây giờ nói về cái duyên, Trung Quốc đang gặp nhiều mâu thuẫn lớn trong kinh tế, xã hội và chính trị. Mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị, giữa các tỉnh duyên hải sống nhờ xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài với các tỉnh nghèo đói nằm sâu trong lục địa, mâu thuẫn giữa giàu và nghèo, giữa trung ương và các địa phương và quan trọng nhất, giữa hệ thống chính trị và chính quyền với thị trường kinh tế. Khi tư bản hết hồ hởi chảy vào mà chạy ra, là điều ta có thể thấy rõ hơn trong năm nay vì lãi suất Mỹ đã tăng và sẽ còn tăng, những mâu thuẫn ấy sẽ phát tác. Đảng Cộng sản vốn đã mất uy tín về nạn tham nhũng lại còn gây bất mãn vì bất lực trước bài toán quốc kế dân sinh. Nội loạn có thể bùng nổ và lây lan qua chính trị. Những điều đó có thể xảy ra trong năm nay và kéo dài đến cao điểm tâm lý là Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Sau đó là khủng hoảng có thể làm đảng Cộng sản mất quyền cai trị.
Thói thường, khi các chính quyền độc tài bị yếu thế thì lãnh đạo thường thổi lên chủ nghĩa quốc gia dân tộc, thực chất là chủ nghĩa phát xít, và có khi gây hấn với bên ngoài để trấn áp chống đối bên trong. Trường hợp ấy mà xảy ra tại Trung Quốc thì Đài Loan và Việt Nam có khi lãnh họa. Đấy mới là mối lo đáng quan tâm từ phía Trung Quốc.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.