Hôm nay,  

30-4 Nhìn Lại: Trách Nhiệm Về Ai?

09/05/201700:00:00(Xem: 17335)

Chẳng những đảng DC ép chính quyền Nixon/Ford phải tháo chạy mà còn..

Nhân dịp 42 năm ngày đau buồn của đất nước, ta thử xem lại một góc cạnh của chuyện cũ.

Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có cuộc chiến nào gây tranh cãi như cuộc chiến VN, từ nguyên nhân, đến diễn tiến, hậu quả,... Đọc cả trăm cuốn sách thì sẽ thấy cả trăm luận cứ, chẳng ai đồng ý với ai. Mà tranh cãi mạnh nhất dĩ nhiên là vấn đề trách nhiệm. Ai chịu trách nhiệm khơi mào, ai chịu trách nhiệm chấm dứt chiến tranh?

Ở đây, ta chỉ nói từ phiá “ta”, tức là từ phiá VNCH và đồng minh thôi. Chứ dưới góc nhìn của CSVN thì mọi chuyện rõ như ban ngày: tất cả là lỗi “đế quốc Mỹ và đám tay sai ngụy quyền”, nói chuyện với đầu gối có ý nghiã hơn.

Nói về khơi mào chiến tranh thì có vẻ quá bao quát. Ta đang nói về chiến tranh nào? Nhìn gần thì cuộc chiến bắt đầu tháng Chạp năm 1960 khi CSBV đẻ ra cái quái thai Mặt Trận Giải Phóng để thôn tính Miền Nam. Nhìn xa hơn một chút thì cuộc chiến bắt đầu tháng Chạp năm 1946 khi Pháp đánh Việt Minh (VM) tại Hải Phòng đưa đến cuộc chiến dành độc lập của VM. Hội nghị Geneve và vĩ tuyến 17 chỉ là cuộc hưu chiến ngắn. Nhìn xa hơn nữa thì phải nói cuộc chiến bắt đầu thời Phan Thanh Giản khi Pháp khởi quân chiếm VN, nẩy sinh ra các phong trào kháng chiến chống Pháp bằng vũ lực, liên tục cho đến thời Đề Thám, Phan Đình Phùng,... rồi các phong trào Việt Quốc, Việt Cách và Việt Minh.

Thực tế lịch sử là cả ba khởi điểm trên đều khó tách riêng ra được. Nếu Pháp không xâm chiếm VN thì đã không có các cuộc kháng chiến, có thể đã không có phong trào VM, đã không có chia đôi đất nước, đã không có cuộc chiến 60, và đã không có ngày 30-4.

Điều đáng suy gẫm là cho dù Pháp không đô hộ VN thì cũng chưa chắc là đã không có hiện tượng CSVN, và đã không có cuộc chiến quốc-cộng. Phong trào quốc tế CS với chủ trương sơn đỏ cả thế giới, chắc chắn đã không bỏ qua nước VN ta. Và nếu chúng đến VN, ai biết được phản ứng của dân VN đã như thế nào? Có sẵn sàng chấp nhận chế độ CS không hay cũng đã có một cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa phe CS và phe không chấp nhận CS?

Bàn đến đây thì ta lại thấy lộ ra một vấn đề khác: cuộc chiến dai dẳng hiển nhiên là khởi đi từ tinh thần ái quốc dành độc lập, đã biến thể thành cuộc chiến ý thức hệ quốc-cộng. Như vậy thì biến thể từ lúc nào?

Hồ bắt đầu ra tay bắt cóc và thủ tiêu các lãnh tụ Việt Quốc và Việt Cách cuối 1945, chỉ vài tháng sau khi chính phủ liên hiệp được thành lập. Nhưng khi đó hệ thống thông tin còn cực kỳ thô sơ, không có TV, báo chí, internet như ngày nay, trong khi VM ém nhẹm nên tuyệt đại đa số dân ta không hay biết gì về việc VM tráo trở. Cái gian ý của Hồ là dụ dỗ Chu Bá Phượng ở lại nội các để thiên hạ tưởng VNQDĐ vẫn hợp tác với VM. Do đó, khi Pháp đánh VM và VM hô hào tiêu thổ kháng chiến thì cả nước hưởng ứng ngay.

Do đó, ta có thể nói cuộc chiến năm 46 khởi đi như là cuộc chiến dành độc lập, có khá nhiều người không CS tham gia để đánh Pháp. Cuộc chiến này chuyển hướng hẳn qua cuộc chiến quốc-cộng từ những năm 49-50, sau khi Mao chiếm được cả lục địa Trung Hoa, tràn qua VN, một mặt giúp Hồ đánh Pháp, mặt khác cũng giúp Hồ tung ra nhiều chính sách (cải cách ruộng đất, thuế má,...) nhằm cộng sản hoá những vùng do VM chiếm giữ khiến rất nhiều người không CS bỏ chiến khu, “về thành”, trong khi Pháp bắt đầu trả độc lập cho VN và tướng De Lattre thành lập quân đội quốc gia VN, từng bước trao quyền cho sĩ quan VN.

Một cách tóm gọn, có thể nói trách nhiệm xa gây ra cuộc chiến tại VN chính là thực dân Pháp, trong khi trách nhiệm gần hơn là cộng sản quốc tế. Cả hai thế lực đều mang mộng thôn tính nước ta và gặp phải sự chống đối của dân ta, đưa đến chiến tranh triền miên trên đất nước ta.

Có một cách khác để bàn về trách nhiệm: đó là nhìn lại những cơ hội tránh chiến tranh.

VN đã có một cơ hội rất lớn có được độc lập và vẹn toàn lãnh thổ trong hòa bình ngay sau Thế Chiến II, khi TT Roosevelt đòi hỏi các cường quốc Âu Châu trao trả độc lập cho các thuộc địa.

Ý kiến trên đáng tiếc thay đã không thành hình sau khi TT Roosevelt qua đời và khi tướng De Gaulle ngoan cố không chấp nhận nhả Đông Dương, ép TT Truman phải giúp Pháp trở lại Đông Dương, như cái giá phải trả để Pháp tham gia vào khối liên minh Mỹ-Tây Âu (NATO) chống sự bành trướng của CS Liên Xô tại Âu Châu. TT Truman đánh giá đồng minh với Âu Châu để cản CS Liên Xô quan trọng hơn độc lập của các thuộc địa. Mỹ quyết định giúp Pháp trở lại Đông Dương. Làm mất đi một cơ hội lớn để VN được độc lập và tránh chiến tranh.

Dĩ nhiên nếu trường hợp đó xẩy ra thì khi đó, 1945-46, cũng là lúc VM với Hồ Chí Minh đang nắm quyền, và cả nước VN đã được “độc lập” dưới chế độ CS rồi, cho dù dưới danh nghiã chính phủ liên hiệp với sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc, và vài nhân vật độc lập không đảng phái trong nội các. Câu hỏi là trong trường hợp đó, Hồ có cộng sản hoá VN không, có còn chấp nhận chính phủ liên hiệp không, và người quốc gia có tiếp tục chấp nhận Hồ không? Hay là sẽ có ngay nội chiến quốc-cộng? Nhìn vào việc Hồ thanh toán chính phủ liên hiệp cuối năm 45 thì câu trả lời quá rõ.

Dù sao thì trách nhiệm của tướng De Gaulle cũng thật lớn khi ông nhất quyết không chịu nhả Đông Dương khi đó.

Một cơ hội tránh chiến tranh, bảo toàn lãnh thổ, và đạt được độc lập nữa là trận chiến Điện Biên Phủ. Khi đó VM đánh ván bài xả láng, tung gần hết lực lượng ra để hạ Pháp ngay khi Hội Nghị Geneve đang diễn tiến để tìm giải pháp cho Đông Dương, với sự giúp đỡ mạnh của Mao. Khi VM đe dọa Điện Biên Phủ, Pháp đã yêu cầu Mỹ giúp, trải thảm bom tiêu diệt lực lượng CS khi đó đang tập trung quanh thung lũng Điện Biên, nhưng TT Eisenhower từ chối can dự nếu không có vài “đồng minh” tham gia cùng, chủ yếu là Anh Quốc. Nhưng Anh là bạn thực dân của Pháp, sợ Mỹ nhẩy vào sẽ diệt cả CS lẫn Pháp và tóm thâu VN vào ảnh hưởng của Mỹ, và vẫn bực mình vì bị Mỹ ép làm mất các thuộc điạ lớn như Ấn Độ, Miến Điện, và vài nước Phi Châu, không chịu can thiệp cùng với Mỹ.

Việc Mỹ-Anh không can thiệp đưa đến chiến thắng cho VM tại Điện Biên Phủ rồi tại Geneve luôn, tặng cho CSVN cái tiếng chính danh đuổi được thực dân Pháp, ít nhất trên một nửa nước và củng cố sức mạnh của CSVN cho đến khi họ trở thành đối thủ tay đôi của Mỹ ít năm sau.

Nếu như Mỹ nhẩy vào cuộc khi đó, biết đâu CSVN đã bị tiêu diệt ngay tại Điện Biên Phủ và giải pháp Bảo Đại với Quốc Gia VN đã trường tồn? Tức là VN đã được độc lập mà không có cuộc chiến quốc-cộng luôn.

Trách nhiệm này phải nói là của chính TT Eisenhower, một ông tướng giỏi về quân sự, nhưng không có viễn kiến chính trị [trong Thế Chiến II, đã từng dừng quân sau khi vượt biên giới Pháp-Đức, nhường cho Liên Xô chiếm Ba Lan, Tiệp, Đông Đức và Bá Linh, đưa đến tình trạng CS hóa một nửa Âu Châu sau đó].

Bây giờ ta nhìn qua giai đoạn cuối của cuộc chiến, ai chịu trách nhiệm để VNCH lọt vào tay CSBV?

Cho đến nay, ngay cả trong khối người Việt tỵ nạn, đã có không ít người vẫn mạnh miệng tố cáo TT Nixon cùng với Ngoại Trưởng Kissinger, thông đồng bán đứng Nam VN cho Trung Cộng, để tập trung nỗ lực cứu Do Thái.

Lập luận này chỉ là cái lý chạy tội của đảng Dân Chủ Mỹ, không hơn không kém, mà nhiều người vô tình hay cố tình đã chấp nhận và lập lại.

Hiển nhiên là đảng DC lúc đầu rất hăng say trong lý tưởng bảo vệ tự do, dân chủ, nhân quyền, thích can thiệp vào chuyện thiên hạ, làm người hùng cứu nhân độ thế. TT Kennedy trong diễn văn nhậm chức để đời đã nói rất hùng hồn là nước Mỹ “sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, nhận bất cứ khó khăn nào, để hỗ trợ tất cả các nước bạn, chống lại tất cả kẻ thù, để bảo đảm sự sinh tồn và thành công của tự do”. Nổ lớn hơn kho đạn Biên Hòa.

TT Johnson đã tiếp nối con đường đó sau khi TT Kennedy bị ám sát. Cho đến tháng Tám 1964, TT Johnson vẫn còn được hậu thuẫn rất mạnh khi nghị quyết Vịnh Bắc Việt, Tonkin Gulf Resolution, gần như khoán trắng cho TT Johnson đánh Bắc Việt, đã được biểu quyết với tỷ lệ phiếu 416-0 tại Hạ Viện và 88-2 tại Thượng Viện.

Nhưng cái nhìn của dân Mỹ về chiến tranh VN bắt đầu chuyển hướng khi cuộc chiến kéo dài quá lâu vì những sai lầm và thất bại chính trị và quân sự của Mỹ, và khi các phong trào chống sự tham chiến của Mỹ nổi lên mạnh từ những năm 67-68. Dân Mỹ mất kiên nhẫn, kinh hãi trước những cảnh máu lửa chết chóc của chiến tranh được thấy trong mỗi bữa ăn gia đình trên TV, đau buồn khi nhìn thấy con số cả chục ngàn thanh niên về Mỹ trong quan tài phủ cờ, và hàng trăm ngàn thanh niên khác giải ngủ trong tình trạng què cụt trong khi viễn ảnh hoà bình mù tịt, cũng như bị lay chuyển bởi các xách động gọi là “phản chiến” của truyền thông và giới trí thức cấp tiến thiên tả, được cổ võ và điều khiển thẳng từ Mạc Tư Khoa và Hà Nội.


Trong khi đảng CH còn cầm cự, muốn giúp VNCH thì đảng DC bắt đầu tháo chạy, khi trong cuộc bầu tổng thống năm 1968, các ứng viên “phản chiến” đe dọa nặng nề TT Johnson, đến độ ông phải bỏ cuộc, không ra tranh cử nữa. Phe “phản chiến” thất bại, cựu PTT Nixon vào Tòa Bạch Ốc, nhưng đảng DC chiếm đa số tại cả Thượng Viện lẫn Hạ Viện, với sự đắc cử của hàng loạt dân biểu và nghị sĩ “phản chiến”.

TT Nixon thuộc loại diều hâu, nhưng bị áp lực nặng phải rút ra khỏi Nam VN. Dù vậy, ông không chấp nhận rút ra theo kiểu phe DC đòi hỏi, tức là rút ra chỉ với một điều kiện duy nhất là mang các tù binh Mỹ về nước, còn số phận Nam VN ra sao thì tuyệt đối không thắc mắc.

Trong suốt thời gian nắm quyền, ông đã gặp phải chống đối tuyệt đối của phe đối lập DC và TTDC thiên tả suốt ngày bôi bác miền Nam và ca tụng VC, chưa kể hàng vạn người xuống đường biểu tình liên tục cả mấy năm trời. Chỉ trong nhiệm kỳ đầu, TT Nixon đã bị Hạ Viện DC biểu quyết hơn 80 lần, trung bình 3 tuần một lần trong suốt bốn năm, đòi Mỹ chấm dứt can dự vào cuộc chiến.

Tháng Chạp 1969, Thượng Viện DC thông qua luật Church-Cooper cấm triệt mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ Lào. Đường mòn Hồ Chí Minh được các nghị sĩ DC Mỹ bảo đảm an toàn tuyệt đối. Trong chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971, khi CSBV phản công với ít nhất 5 sư đoàn [binh đoàn 70, sư đoàn 304, 308, 320, và 2], trọng pháo và thiết giáp, chống lại vài tiểu đoàn dù VNCH bảo vệ cuộc triệt thoái về nước, quân Mỹ án binh bất động bên này biên giới, chỉ hỗ trợ pháo binh lai rai vì bị trói tay bởi luật Church-Cooper. Năm 1974, VNCH bất lực nhìn CSBV chuyển quân và súng đạn ào ạt vào Nam VN qua đường mòn HCM. TT Nixon muốn đánh bom, nhưng bị vướng xình lầy Watergate, không đủ hậu thuẫn chính trị để vượt qua luật Church-Cooper. “Đương mòn” đã thành xa lộ nhờ các nghị sĩ DC Mỹ.

Tháng 6, 1970, Thượng Viện DC thông qua một tu chính Church-Cooper cấm chính quyền Nixon không được chi một đồng nào cho cuộc chiến tại Căm-Pu-Chia, cấm đánh bom xứ này luôn. Đến phiên các mật khu VC trên đất Căm-Pu-Chia được Thượng Viện DC Mỹ bảo đảm an toàn tuyệt đối. VC di chuyển bộ tư lệnh từ “R” qua Căm–Pu-Chia.

Năm 1972, vẫn nghị sĩ DC Frank Church ra dự luật cấm mọi chi tiêu liên quan đến chiến tranh tại cả vùng Đông Nam Á, ngoại trừ trong mục đích rút quân. Nhưng may mắn cho VNCH, quốc hội không đạt được đồng thuận, nên dự luật này không thi hành được.

Một năm sau, 1973, lấy cớ Hiệp Định Paris đã ký, cũng TNS Church lại cho thông qua luật mới xác nhận cắt hết mọi viện trợ quân sự cho Đông Nam Á. Lần này được Hạ Viện DC thông qua luôn. Và được thi hành. Cũng năm 1973, quốc hội thông qua War Power Act, Quyền Tham Chiến, bắt tổng thống phải xin phép quốc hội nếu tham gia bất cứ cuộc chiến nào quá ba tháng.

Ông Frank Church, nghị sĩ DC của Idaho, là người có trách nhiệm lớn nhất trong việc giết Nam VN.

Tháng Ba năm 1975, khi VC bắt đầu ào ào đổ quân dọc miền Trung, tiến về Sàigòn, quốc hội DC bác đơn của TT Ford xin tháo khoán khẩn cấp 700 triệu viện trợ quân sự đã được phê chuẩn từ lâu nhưng chưa xuất quỹ. Tháng Tư năm đó, khi VC gõ cửa Sàigòn, quốc hội DC cũng bác luôn đơn xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu để tăng cường bảo vệ thủ đô.

Nhìn vào diễn tiến trên, với các nỗ lực không ngừng nghỉ của khối dân cử DC để ép từ TT Johnson đến TT Nixon rồi TT Ford phải chấm dứt sự can dự của Mỹ vào cuộc chiến tại Nam VN bằng cách cắt tiền, ra luật cấm đoán đủ chuyện, làm sao có thể nói TT Nixon là người chịu trách nhiệm về việc mất VNCH? Điều ngạc nhiên đáng nói là việc ông đã cầm cự dai dẳng được 4 năm, vớt vát đến cùng, trước khi ký Hiệp Định Paris.

Trên phương diện ngoại giao, sách lược của ông là làm sao tạo được chia rẽ trong khối CS quốc tế giữa Liên Xô và Trung Cộng, để giảm hậu thuẫn của họ đối với CSBV, hậu thuẫn tinh thần cũng như tiền bạc và súng đạn, rồi đích thân ông đi nói chuyện trực tiếp với cả hai đối thủ để tìm giải pháp cho cuộc chiến.

Có nghiã là những nỗ lực của Kissinger-Nixon khi móc nối với Mạc Tư Khoa và nhất là Bắc Kinh, phải nói là để tìm cách vớt vát, gỡ gạc được bao nhiêu hay bấy nhiêu trước áp lực của khối phản chiến và quốc hội DC, chứ không phải là chuyện đi đêm để bán đứng Nam VN cho TC.

Khi VNCH rơi vào tay CSBV, hàng triệu người dân miền Nam bỏ phiếu bằng chân trốn chạy CS, cản trở và gây rối loạn các cuộc điều quân của các tướng Phú và Trưởng, trong khi VC thẳng tay bắn đại bác vào cả dân lẫn quân ta, đưa đến hàng trăm ngàn người chết trong các cuộc trốn chạy quân CSBV từ Cao Nguyên và miền Trung. Ta thua. Sau 30-4, hàng trăm ngàn người bị đi tù cải tạo, hàng trăm ngàn người khác chết trên Biển Đông. Phe cấp tiến DC và TTDC trắng mắt, tìm cách chạy tội, thả lập luận Nixon bán đứng miền Nam cho TC. Thực tế là cánh cấp tiến thiên tả trong đảng DC đã tập trung mọi nỗ lực chống phá việc Mỹ tham chiến ngay từ những năm TT Johnson vừa đổ quân vào miền Nam, 1964-65. Tất cả những tiếng nói chống đối ồn ào nhất như vợ chồng Jane Fonda/Tom Hayden, hay Frank Church, hay Robert Kennedy, Eugene McCarthy, và sau đó George McGovern,... đều thuộc đảng DC hết.

Ngay cả đến khi VC đe dọa chiếm hết miền Nam, khối DC cũng vẫn là khối chống đối mọi biện pháp cứu nguy, thà chống mắt nhìn Miền Nam rơi vào tay CSBV chứ không chịu chi thêm một xu viện trợ quân sự khẩn cấp do TT Ford xin. Ngay cả việc nhận những người Việt nạn nhân CS vào tỵ nạn khi đó cũng bị khối DC chống, trong đó nổi bật nhất có TNS Biden, TNS Kerry, thống đốc Brown, tất cả đều thuộc đảng DC hết.

Công bằng mà nói, để mất nước là trách nhiệm của chính chúng ta trước tiên, trước khi chúng ta xỉa tay đổ thừa người khác. Ta thua vì lãnh đạo dở, lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, vì hậu phương thiếu đoàn kết, vì chính sách “dân chủ” nửa chừng xuân dung túng cho những phá rối của đám chính khách thời cơ lực lượng cẳng giữa, hay đám nhạc sĩ, sinh viên phản chiến ngây ngô, linh mục và sư sãi ôm mộng hão làm giáo chủ,... Tất cả chỉ khiến cho sự hy sinh của người lính Cộng Hòa trở thành công dã tràng.

Hồ sơ VN còn quá nhiều bí ẩn chưa giải toả hết mà cũng có thể không bao giờ có câu trả lời cuối cùng. Nhưng nhìn vào những diễn biến trên, trách nhiệm của khối cấp tiến DC không thể chối cãi. Chẳng những đảng DC ép chính quyền Nixon/Ford phải tháo chạy mà còn không cho chúng ta cơ hội chống đỡ khi cắt hết tiền bạc và súng đạn để có thể tiếp tục cuộc chiến, rồi còn muốn đóng cửa không cho chúng ta vào tỵ nạn.

TT Nixon đã từng thẳng tay thả bom Bắc Việt, tung quân qua đánh mật khu VC bên Căm-Pu-Chia, bí mật thả bom xứ này mấy tháng ròng rã mà cả VC lẫn Sihanouk đều không dám lên tiếng phản đối vì há họng mắc quai. Nếu không bị quốc hội DC khoá tay, ai biết được ông sẽ đi xa tới đâu. Đổ bộ Vinh hay Hải Phòng?

Các ông Nguyễn Tiến Hưng và Hoàng Đức Nhã đã nhiều lần kết án Kissinger và Nixon đã ma-nớp đủ kiểu kể cả áp lực và lừa gạt TT Thiệu để rút ra khỏi Nam VN, không sai. Nhưng có lẽ họ ở trong cuộc quá gần, quan hệ trực tiếp với Kissinger và Nixon quá nhiều, chỉ nhìn thấy hai ông này mà không nhìn thấy cả quốc hội và phong trào “phản chiến” bên Mỹ, nên không đánh giá đúng mức áp lực trên đầu TT Nixon. Theo ông Nhã, TT Thiệu trách TT Nixon không giữ lời hứa sẽ cứu VNCH, chỉ chứng tỏ lãnh đạo VNCH quả không hiểu gì hay không muốn hiểu chính trị Mỹ, nhất là sau gần cả trăm biểu quyết của quốc hội và sau vụ Watergate.

CSVN huyênh hoang đấm ngực khoe công, thật ra chỉ thắng nhờ... ù lỳ, coi rẻ mạng sống dân và bộ đội, chết bao nhiêu cũng bất cần để đám lãnh đạo chiếm quyền. Tướng Westmoreland đã từng nói, trong quân đội Mỹ, nướng quân như Giáp thì ông ta chưa lên được đại úy đã bị ra toà án quân sự rồi.

Từ phiá Mỹ, truyền thông mỵ dân, trí thức cấp tiến thiên tả, đảng DC yếu đuối, đó chính là những thành phần chịu trách nhiệm lớn nhất cho cơn ác mộng 30 tháng 4 của chúng ta. (07-05-17)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.