Người dân Mỹ có quyền bày tỏ công khai sự bất đồng với chính quyền, đó là nguyên tắc căn bản của một chế độ dân chủ. Nhưng sự bất đồng đó cũng tùy thời tùy hoàn cảnh. Các poll thăm dò cũng có lúc lên có lúc xuống và nếu phản ứng của người dân có nhậy cảm thì đó là vì một nguyên tắc khác cũng rất quan trọng. Ở Mỹ báo chí tiêu biểu cho đệ tứ quyền, với kỹ thuật thông tin hiện đại như ngày nay, tin tức đến với người dân từng giờ từng phút, liên tục đến trên màn ảnh TV ở mọi gia đình và với những phôn cầm tay, tin tức đến với từng cá nhân bất luận giờ phút nào và ở bất cứ nơi đâu. Bồi thêm vào đó là bối cảnh chính trị ở Mỹ, tuy đa nguyên nhưng thực tế chỉ có hai chính đảng lớn thay nhau nắm chính quyền. Khi Cộng Hòa giữ chính quyền, đảng Dân Chủ là đối lập, hay ngược lại cũng vậy.
Trong những giai đoạn sắp có bầu cử, chẳng hạn năm tới 2006 Mỹ sẽ có cuộc bầu lại Quốc hội, cuộc bầu giữa kỳ hạn theo thông lệ vẫn thường dọn đường cho cuộc bầu cử Tổng Thống hai năm sau, bởi vậy nếu đảng Dân Chủ có khai thác triệt để những nỗi bất mãn của dân chúng đối với chính phủ Bush, đó cũng là điều không đáng ngạc nhiên. Nhưng tình thế đó tuyệt nhiên không thể coi là dân Mỹ đã chia rẽ. Nếu dân chúng Mỹ chia rẽ thì bản hiến pháp Mỹ từ hơn 200 năm qua chẳng thể nào tồn tại cho đến ngày nay.
Vậy đoàn kết là thế nào" Đoàn kết tuyệt nhiên không thể là “muôn người như một” dưới một lãnh tụ theo kiểu đấu tranh đã cũ rích từ thời Thế chiến hơn nửa thế kỷ trước. Thời nay, đoàn kết là sự đồng thuận, nghĩa là một tập thể hay cả dân chúng một nước cùng đồng ý về một mục tiêu chung để tranh đấu lâu dài hay trong một giai đoạn nào đó chỉ nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra. Đồng thuận chỉ là một sự thỏa hiệp nhuần nhuyễn tùy thời và mở rộng. Những người có căn cơ khác nhau nhưng khi đã đồng ý về một mục tiêu chung, vẫn có thể ngồi lại với nhau. Thí dụ khi TT Bush ra lệnh tấn công Iraq, dân chúng Mỹ đã có sự đồng thuận tiêu biểu qua cuộc biểu quyết ở Quốc hội. Và cũng phải nói thêm ông Bush đã có một cơ may hi hữu tạo được sự đồng thuận trong nội bộ. Đó là việc bọn khủng bố al-Qaida tổ chức đánh thẳng vào hai tòa nhà ở New York và Ngũ giác đài ở Washington DC.
Ngay sau vụ đánh phá làm chấn động thế giới, ông Bush đi thăm New York đã tỏ thái độ rất cứng rắn đối với bọn khủng bố nên được dân Mỹ hoan hô nhiệt liệt. Sự đồng thuận càng lớn hơn khi Mỹ lãnh đạo liên quân lật đổ được chế độ Taliban ở Afghanistan. Sự hứng khởi đã giúp các cố vấn, các nhân vật thân cận nhất trong Nội các đưa Tổng Thống của họ đến một quyết định cứng rắn hơn nữa: tấn công Iraq theo kiểu tiên hạ thủ vi cường, bất chấp LHQ và dư luận thế giới. Đáng tiếc là tình thế kế tiếp đã cho thấy một chính sách quyết đoán và cứng rắn không đủ để tiêu diệt khủng bố hay xây dựng dân chủ ở Trung Đông.
Ngay từ cuối năm 2003 chúng tôi đã viết với cuộc chiến Iraq, Mỹ đã đi vào con đường duy nhất chỉ có thể tiến chớ không thể lùi. Mỹ không thể rút quân ngay lập tức theo kiểu đem con bỏ chợ, vì làm như vậy Trung Đông sẽ có loạn lớn, chính sách đối ngoại Mỹ sẽ bị thương tổn nặng với hậu quả không thể lường, di họa cả về sau rất lâu dài. Nhìn cảnh giết chóc đánh phá tan nát với bom tự sát và nổi dậy ở Iraq hiện nay, trong đó dân Iraq thuộc đủ mọi khuynh hướng tôn giáo và sắc tộc đều chết thê thảm, chúng tôi thầm nghĩ giá ví thử khi Saddam Hussein còn cầm quyền, Mỹ chỉ cần bao vây cấm vận làm nghẹt chế độ cũng đủ, khỏi cần tiến quân để lâm thế kẹt như ngày nay. Nếu vậy chế độ độc tài khát máu Iraq sẽ tồn tại mãi hay sao" Nhất định không, bởi vì sách lược xiết như vậy chắc chắn sẽ gây chia rẽ trong nội bộ chế độ, làm cho chúng tự giết lẫn nhau mà chết, khỏi cần phải hy sinh biết bao xương máu và tiền bạc của người Mỹ. Sách lược tốt nhất đối phó với các chế độ độc tài 2vẫn là làm cho chúng nội nổ.
Vậy chia rẽ là gì" Chia rẽ dưới chế độ dân chủ khác với chia rẽ trong chế độ độc tài đảng trị. Đảng Cộng sản Liên Xô chết không phải vì bom Mỹ mà vì chúng chia rẽ tự giết lẫn nhau. Bài học đó vẫn còn cho các nhà lãnh đạo Mỹ. Bây giờ hãy nhìn đến hai chế độ độc tài ở Á châu mà người gốc Việt chúng ta quan tâm nhất. Đó là Trung Quốc và Việt Nam. Đối với Cộng sản Trung Quốc, mặc dù còn nguy hiểm hơn Saddam Husein rất nhiều, Mỹ không thể bỗng dưng dùng vũ lực tấn công. Mỹ không bao vây cấm vận mà ngược lại, còn nỗ lực mở rộng giao thương với nước này để đôi bên cùng có lợi. Còn đối với Cộng sản Việt Nam, Mỹ chẳng những không cứng rắn mà còn ve vãn mong có thỏa hiệp về mọi mặt để làm thế ỷ dốc chống lại mưu toan bành trướng thế lực của Bắc Kinh. Như vậy hai chế độ độc tài Á châu vẫn muôn năm trường trị chăng"
Chúng tôi nghĩ tuy Mỹ không xiết vòng vây, nhưng chính hai chế độ này đã tự đưa cổ vào cái thòng lọng. Đó là việc mở cửa cho kinh tế thị trường tiến vào nước. Xã hội mang bộ mặt khác, kiến thức của người dân gia tăng, trong khi khẩu hiệu mới “làm giầu là vinh quang” tuy ngấm ngầm nhưng thiết thực với nạn tham nhũng từ trên xuống chắc chắn sẽ làm tan một đảng tổ chức kiên cố và tinh vi như đảng Cộng sản. Châm ngòi cho ổ kiến lửa nội nổ vẫn tốt hơn dùng lửa đốt từ bên ngoài.