Hôm nay,  

Ăn Phở Quanh Thế Giới

21/02/201800:00:00(Xem: 7603)
BuiVanPhu_20180219_Pho_H01_Berkeley

Quán phở cạnh trường Đại học Berkeley. (Ảnh: Bùi Văn Phú)

BuiVanPhu_20180219_Pho_H02_LeDalat

Nhà hàng Le Dalat ở Abidjan, Côte d’Ivoire. (Ảnh: Bùi Văn Phú)

BuiVanPhu_20180219_Pho_H03_GiaViPhoHoa

Gia vị phở siêu thị ở Mỹ. (Ảnh: Bùi Văn Phú)


Quán phở bắc trong khu Little Saigon, San Francisco. (Ảnh: Bùi Văn Phú


Nhà hàng Hanoi Plage ở Nouméa, Nouvelle Calédonie có bán phở. (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 
Bùi Văn Phú
 

Mùa hè năm 1975 tôi đến định cư ở thành phố đại học Berkeley. Nơi đây chỉ có một tiệm tạp hoá nhỏ bán thực phẩm châu Á trên đường Grove, bây giờ là Martin Luther King. Cửa tiệm gần trường Berkeley Adult School, nơi tôi học ESL, nên thỉnh thoảng ghé mua gạo, mì gói, gia vị, nước mắm Thái. Nghe nói có phố tầu San Francisco bán đủ thứ thức ăn Á đông, nhưng còn đạp xe đi học nên nơi đó xa xôi.

Khi mới qua Mỹ bữa ăn không thiếu canh hay các món kho, sào vì có thể mua rau thịt, tôm cá từ siêu thị Safeway, Lucky hay Co-op về nấu nướng.

Nhưng muốn ăn phở là điều khó. Ở Việt Nam chẳng mấy người biết nấu phở, ngoài những chủ tiệm. Muốn ăn, ghé vào hàng quán là có ngay tô phở nóng, thơm phức. Tôi đã ăn phở Cao Vân, Tàu Bay, Hiền Vương trên trung tâm Sài Gòn, hay phở Cường ở Ngã ba Ông Tạ, gần nhà.

Qua Mỹ nhớ phở mà không biết tìm đâu. Còn nấu phở nhiều khi là bí quyết gia truyền. Nhớ quá nên bà chị họ cũng lò mò nấu. Chị mua đuôi bò về hầm, vì xương bò không bán trong siêu thị Mỹ. Gia vị chỉ có hành và gừng, không hồi, không quế. Bánh phở là thứ bánh khô to sợi và mỏng của người Hoa. Phở tái chỉ có hành xanh, không rau thơm như mùi, ngò gai hay húng. Ăn tô phở bà chị nấu cứ như tô nui (macaroni) vậy thôi, không chút hương vị phở.

Vài năm sau dưới San Jose có tiệm phở mà anh em sinh viên gọi là Phở 13, vì nằm trên đường 13, là nơi chúng tôi hay ghé ăn khi đi họp hội, tham gia sinh hoạt cộng đồng. Quán này có đủ gia vị và rau thơm, ăn vào thấy đỡ nhớ quê hương.

Khi có xe ôtô, tôi khám phá ra nhiều nhà hàng Việt trong vùng có phở. Oakland có quán Vy, Phở 84; San Francisco có quán Mai, Cordon Bleu; San Jose có Đà Lạt là những nhà hàng mở ra vào cuối thập niên 1970, đầu 1980. Vài năm sau khi có cộng đồng Việt ở Mỹ, nhiều nơi đã bán phở để phục vụ khách hàng mang mang nỗi nhớ quê xa.

Năm 1983 tôi rời Hoa Kỳ qua Togo, châu Phi dạy học. Ở Thủ đô Lomé có quán ăn Việt tên Quatrième Zone trên đường Boulevard Circulaire. Một hôm rủ bạn ghé vào ăn thử, một lần nữa mong tìm được hương vị quê nhà nơi xứ lạ. Nhưng hoàn toàn thất vọng vì tô phở ở đây cũng như phở bà chị họ đã nấu cho ăn, mà còn thiếu cả hành xanh nên vô cùng nhạt nhẽo.

Một lần đi chơi Côte d’Ivoire, ở thủ phủ kinh tế Abidjan có nhiều nhà hàng Việt. Ghé quán Le Dalat và tôi ngạc nhiên khi được thưởng thức một tô phở đậm vị quê hương nơi đất châu Phi với mùi hồi, quế và có cả rau húng. Tôi cứ ngỡ chất liệu nấu phở của quán phải đến từ Pháp, cách đây 5 giờ bay, nhưng khi hỏi chuyện chủ nhà hàng là bác Đỗ Đắc Lộc, nguyên tổng lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại đây, nghe bác kể mỗi năm đều qua California, cách xa hơn nửa vòng trái đất, khi về mang theo nhiều kiện bánh phở khô và các loại gia vị.

Như thế từ đầu thập niên 1980 hương vị phở đã lan toả sang châu Phi, không phải từ Việt Nam hay Pháp mà từ thủ phủ của người Việt tị nạn ở California.

Phở có thể đã được ra đời từ khi người Pháp đô hộ Việt Nam trong thế kỷ 19, đem theo món “pot-au-feu”, cải biến theo văn hoá thực phẩm Bắc Kỳ và được phát âm thành phở. Phở đã có tại Pháp từ thập niên 1950, nhưng chưa lan toả ra thế giới.

Một lần đến Paris, ăn phở trong quán gần Đại học Sorbonne và thấy không ngon bằng phở California. Nhưng tôi thích, vì gọi phở mà còn được phục vụ hai nem rán nhỏ, ăn với sa-lát chấm nước mắm chua ngọt để khai vị.

Sau năm 1975, với Quận Cam là nôi sinh của cộng đồng người Việt tị nạn và với môi trường tự do kinh doanh nên hương vị phở đã bay ra khắp nước Mỹ và thế giới. Có thể nói ở đâu có người Việt ở đó có phở.

Xem cuốn Niên giám Thương mại 2018 do cơ sở Người Việt ấn hành, dưới danh mục “Pho” có đến 110 tiệm trong Quận Cam và Los Angeles. Riêng Phở 54, Phở 99 có dăm bảy chi nhánh ở các thành phố khác nhau. Trước đây có danh hiệu phở Hòa rất nổi tiếng.

Trên khu vực San Jose, niên giám thương mại địa phương có hơn 50 tiệm phở. Ngày nay quán Phở 13 không còn. Thỉnh thoảng bạn rủ đi ăn phở Bằng hay phở Ý, ngon hết ý, như lời quảng cáo từ hơn hai chục năm trước.

Khu Vietnam Town, Phở 90 Degrees có món phở bê thui, ăn với rau ngổ chấm tương. Hương vị lạ, nhưng ngon.

Vào một quán chuyên phở bạn có thể tìm thấy 20 loại khác nhau. Tái, nạm, gầu, gân, sách, bò viên, gà đi bộ, gà xé phay. Có cả phở hải sản, nghe không quen, hương vị ra sao vì tôi chưa thử. Sợ phí tiền.

Bây giờ phở Việt đã có mặt khắp nơi. Từ đảo nhỏ ở Nam Thái Bình Dương lên đến bang Alaska, của Mỹ giáp ranh giới với Nga Sô.

Một lần đi chơi Nouvelle Calédonie, ghé quán Hanoi Plage ở thủ phủ Nouméa ăn phở. Phở tái ở đây ngoài thịt bò còn thêm chả lụa. Thấy lạ, hỏi bà chủ và nghe giải thích vì tối hôm đó hết bò viên, bà thay bằng chả.

Hương vị phở đã lan tỏa thật xa. Ở Nouméa, ở đảo Bora Bora của Tahiti trong siêu thị cũng bán phở gói, sản xuất từ Việt Nam.

Lớn lên ở miền Nam nên tôi quen với phở do người di cư 1954 nấu, cải biến cho hợp với văn hóa ẩm thực miệt vườn, vì thế ăn phở với giá, các loại rau thơm và tương ớt, tương đen.

Tôi thưởng thức phở bắc lần đầu ở Thái Lan. Cuối năm 1985 đến xứ Thái, lên tham quan Nakhon Phanom trên vùng đông bắc, dọc theo sông Mekong phân chia Thái-Lào, ở đó có đông người Việt sinh sống từ trước năm 1954. Buổi chiều ra khu chợ có nhiều sạp hàng và xe bán thức ăn. Nghe mời chào mua gì đó bằng tiếng Thái, tôi chỉ biết trả lời: “mài Thái, người Việt” – không phải Thái, người Việt. Thấy thế có bà cụ giọng bắc đặc hỏi có phải tôi trốn trại tị nạn ra. Tôi trả lời không, từ Mỹ qua.

Thế là tôi nói tiếng Việt thoải mái và ai cũng hiểu. Có một quầy bán phở nhưng tôi không chắc vì người Thái cũng có món nước như phở, giống hủ tiếu hơn, tôi đã ăn ở chợ Bangkok. Hỏi có phải phở, bà bán hàng nói phở bắc chính hiệu. Tôi gọi một tô. Nước trong, bánh to, bên trên là mấy lát thịt bò tái và hành xanh. Chỉ có thế, không rau thơm, không giá, không tương đen tương đỏ, đúng là phở bắc. Ngon, nhưng không bằng bún mọc hôm sau tôi ăn cũng ở khu chợ này.

Hồi làm việc ở Hong Kong, có phở ở nhà hàng Saigon, nấu kiểu miền Nam. Một quán khác trong khu Yau Ma Tei, gần bến tầu, mà tôi hay giới thiệu cho thuyền viên khi ghé bến vào ăn và được các anh xác nhận là đúng hương vị phở bắc.

Đến Hà Nội lần đầu năm 1995, tôi và bà xã đi ăn sáng ở một quán phở nơi góc phố Tràng Thi và Hàng Khay. Bên trong có mấy bàn thấp và hàng ghế dài, đông khách. Bát phở tái bên trên chỉ có thịt và hành hương đặc biệt miền Bắc, không rau thơm, tương. Thơm, ngon nên chúng tôi mỗi người ăn hai bát.

Chuyến đi đó tôi cũng ghé ăn phở Nam Định, gần bưu điện, trên đường về quê thăm họ hàng ở làng Chiền. Không ngon vì lõng bõng quá nhiều mỡ. Phở Hải Phòng cũng thế.

Bây giờ San Francisco cũng có phở bắc là quán Turtle Tower trên đường Larkin khu Little Saigon. Nghe giọng chủ quán và những người phục vụ là nhận ra ngay chính gốc miền Bắc.

Rong chơi Hà Nội tôi thường thấy hàng quán có biển chữ: bánh cuốn gia truyền, bánh gai gia truyền, bánh cốm gia truyền, phở gia truyền, bún thịt nướng gia truyền. Công thức nấu nướng của người Bắc hình như luôn là những điều bí mật.

Phở hải ngoại không còn là bí quyết hay mang tính gia truyền. Ngày nay gia đình nào cũng có thể tự nấu. Chất liệu nấu phở đều có bán trong các siêu thị. Các loại rau thơm như mùi, ngò gai, húng có quanh năm, ngoài tiệm hay vườn sau nhà. Nấu ăn liền có nước cốt phở Quốc Việt, có gia vị mang thương hiệu phở Hòa, phở Pasteur.

Bà chị họ cho tôi ăn phở lần đầu ở Mỹ hơn bốn mươi năm trước giờ vẫn thỉnh thoảng nấu cho gia đình ăn, ngon. U tôi qua Mỹ cũng biết nấu phở cho con cháu ăn, rất thích.

Nhà tôi gốc miền Trung, cũng nấu phở, tôi ăn ba bữa chưa ngán, vì không bỏ bột ngọt, hầm nhiều xương, ít hồi, gia giảm theo khẩu vị của mình. Hay vì “cơm nhà quà vợ” nên thế?

Tôi dạy sác xuất thống kê nhập môn, khi làm khảo sát với sinh viên trong bản câu hỏi luôn luôn có câu: “Một điều gì mà bạn biết về Việt Nam” (Name one thing you know about Vietnam). Dữ kiện thu thập trong nhiều năm qua, có bốn điều liên quan đến Việt Nam được sinh viên ghi nhận nhiều nhất là: war, phở, bánh mì và áo dài.

Tuy không mang tính đại chúng vì chỉ giới hạn trong lớp nhưng bạn đọc có thể hình dung những câu trả lời của sinh viên với trò chơi Family Feud trên truyền hình Mỹ, hay Chung Sức trên VTV ở Việt Nam.

Kết quả trả lời cho câu hỏi: Một điều gì bạn biết về Việt Nam, có những đáp án sau: war (50), phở (25), bánh mì (10), áo dài (4), còn lại vài ba điều ít được biết đến hơn, như fish sauce (nước mắm), egg roll (chả giò), conic hat (nón lá) hay Hồ Chí Minh.

Sinh viên của tôi ngày nay đa số vẫn liên tưởng đến cuộc chiến khi nhắc đến hai chữ Việt Nam. Sau chiến tranh, nhiều bạn biết đến món ăn bình dân nhất của người Việt là phở, vì phở là món ăn hấp dẫn đã có ở nhiều nơi, cả ở những vùng xa xôi hẻo lánh, băng giá như thành phố Anchorage của tiểu bang Alaska cũng có đến dăm tiệm phở.

Tổng thống Bill Clinton là lãnh đạo Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Đến Sài Gòn ông và ái nữ Chelsea đi ăn phở, giúp nâng tầm quảng bá cho món ăn quốc hồn quốc túy của người Việt. Tiệm phở này nay có tên “Phở 2000” để ghi dấu niên lịch quán được vinh dự đón tiếp lãnh đạo Mỹ.

Phở đối với người Việt có thể so sánh như hamburger với người Mỹ. Người Mỹ mang hamburger ra khắp thế giới, ngày nay phở cũng đã theo chân người Việt đến mọi nơi trên địa cầu.

 
© 2018 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.