Hôm nay,  

Tác Phẩm song ngữ "Thơ Những Người Thua Cuộc -- Poems of the Losers"...

20/03/201915:51:00(Xem: 5484)

Tác Phẩm song ngữ
"Thơ Những Người Thua Cuộc -- Poems of the Losers"...
120 bài thơ 50 tác giả --
 
Phát hành online:
Amazon, Barnes & Noble, Lulu và Ingram.
Giá bìa: $32/cuốn

Hoặc mua tại NXB Sống:
$30/cuốn
FREE SHIPPING Hoa Kỳ.
Liên lạc: (714) 414-8119



blank

  

Lời mở đầu

 

Vẫn là những người lính đó mà những bài thơ của họ chúng ta đã được đọc trong “Thơ Lính Chiến Miền Nam - ARVN Soldiers’ Poetry”, cùng với nhiều đồng đội khác; họ đã trở về từ cuộc chiến, may mắn sống sót, còn nguyên vẹn hay đã tật nguyền, góp mặt trong tuyển thơ này.

Điều đặc biệt ở đây là những ý thơ, những câu thơ,những bài thơ này đã được làm ra, hoặc ấp ủ, trong bóng tối nhà tù, sau hàng rào kẽm gai trại tập trung, sau những cơn đau của bệnh tật, những đợt hành hạ của gông cùm… Có khi, thoải mái hơn, trong lúc “lao động” trên những nương rẫy, cánh đồng, hoặc trên những nẻo đường mưu sinh bằng đủ thứ nghề: đạp xích lô, làm thợ mộc, ngư phủ, gác dan, dạy kèm, phu khuân vác… Lại có khi, thơ được làm ra, trên đất nước tạm dung, nơi họ đã được đưa đến để “làm lại cuộc đời”hay “lưu vong”?; một nơi hoàn toàn lạ lùng, thật xa quê hương mà họ phải bỏ lại.

Nếu “bên thắng cuộc” đã liên tu bất tận có những tiếng nói của họ: gang thép, đe dọa, tự mãn, ngông cuồng và say sưa… thì những lời thơ này, của những “người thua cuộc”, là tiếng nói của sự chịu đựng, nhẹ nhàng và bao dung, một nỗi đau không dứt; vậy mà, nhiều khi, lời thơ lại phảng phất giọng điệu của những hào kiệt “sa cơ lỡ vận”, rất hào sảng. Với tâm hồn giàu nhân bản (như đã giới thiệu trong Thơ Lính Chiến Miền Nam…); những người lính làm thơ của QLVNCH, dù chịu nhiều đòn thù ác nghiệt của “bên thắng cuộc”, họ không hề nuôi dưỡng những oán hờn đối với cựu thù của mình. Như thể họ đã xem đó là cái giá mà chính họ phải trả trong cơn quốc nạn. Thậm chí, có những giọng thơ, lời thơ rất khôi hài, như tự mỉm cười với số phận của mình, vì đã không còn cách nào khác. Mọi chuyện xảy ra thực sự đã vượt quá tầm tay của họ.

Tuy thế, họ đã không đầu hàng số phận. Nơi đất nước tạm dung, nhiều cựu binh này đã tiếp tục học hành, đỗ đạt, sống và làm rất nhiều việc có ích cho đời.

Erich Segal có viết “…Part of being a big winner is the ability to be a good loser”*

Những cựu binh-nhà thơ này là những người thua cuộc quân tử.

Nguyễn Hữu Thời

Cựu SVSQ khóa 3/73 Thủ Đức

 

*(Biết thua một cách quân tử là một đức tính của kẻ thắng trận hào hùng - Phan Lệ Thanh dịch)

 

  

 

Preface

 

The readers find herein just the same soldiers - now veterans whose poems could be read in “Thơ Lính Chiến Miền Nam - ARVN Soldiers’ Poetry”. Together with other companions-in-arms, they returned from the war; some lucky to be intact, others disabled; they are present, helping to make this poetry anthology: Poems of the losers.

What is special is the fact that the ideas, the themes, the poems in this anthology were nurtured, written in the darkness of the jails, behind the barbwire fences of the concentration camps, after fits of painful diseases or blows of torture...or occasionally, less miserable, on the fields or milpas, or somewhere else while they were working trying to make a living by doing all kinds of odd jobs: as a pedicab driver,a carpenter,a fisherman, a security guard, a tutor,a porter... Also, some poems were written during the later years in foreign lands where they had been accepted as refugees to “start a new life” or to “be exiled” in strange places, an ocean apart from their own homeland.

When the winners have been raising their voice arrogantly, threateningly, complacently, extravagantly and very passionately... these verses of the losers present the voice of tolerance, moderateness and forgiveness in a ceaseless pain; yet the language of the poems, more often than not, sounds the tone of “down and out” heroes, still very generous. With the spirit of humanity (as introduced in “ARVN Soldiers’ Poetry),the poets of the Army of  Republic of Vietnam, despite the formidable revenge and ill-treatment,still did not nourish any feeling of resentment against their former enemy. It seemed they took it for granted that they had to pay a heavy price for losing the war they had fought and it was just the national calamity. There is somewhere in this anthology a tone of humor, when some authors even seemed to be fond of laughing at their fate as they could not do anything to change it. Everything was beyond their control.

Nevertheless, they did not give up their hope and efforts. As immigrants in the new lands, some got back to schools or universities, later being graduates and able to live usefully.

Erich Segal once wrote in one of his novel “Part of being a big winner is the ability to be a good loser”.

These veterans-poets are the good losers.

 

Nguyễn Hữu Thời

Ex-cadet of Class 3/73 Infantry School, RVNAF

 

  

 

120 bài thơ 50 tác giả

 

Sau một năm làm việc, đến nay tôi đã tìm được 120 bài thơ của 50 tác giả để đưa vào bản thảo tập THƠ NHỮNG NGƯỜI THUA CUỘC theo danh sách dưới đây:
 

Chu Vương Miện  Dư Mỹ  Đăng Nguyên  Đức Phổ  Hà Thúc Sinh  Hạ Quốc Huy  Hòa Nguyễn  Hoài Ziang Duy  Hoàng Lộc  Hồ Chí Bửu  Hồ Minh Dũng  Huy Uyên  Lâm Chương  Lâm Hảo Dũng  Lê Mai Lĩnh  Luân Hoán  Lữ Quỳnh  Mường Giang  Nguyễn Dương Quang  Nguyễn Đăng Trình  Nguyễn Đông Giang  Nguyễn Hữu Nhật  Nguyễn Hữu Thời Nguyễn Hữu Thụy Nguyễn Nam An  Nguyễn Ngọc Nghĩa  Nguyễn Phan Thịnh Nguyễn Phúc Sông Hương  Nguyễn Tư  Nguyễn Văn Ngọc  Ngô Đa Thiện  Ngô Đình Khoa  Như Không  Phạm Quang Ngọc  Phạm Văn Bình  Phan Ni Tấn  Phan Xuân Sinh  Phương Tấn  Quan Dương  Thái Tú Hạp Thiếu Khanh  Thy Lan Thảo  Trang Châu  Trạch Gầm  Trần Đình Thao  Trần Hoài Thư  Trần Thanh Ngọc  Trần Văn Sơn  Trần Vấn Lệ  Trần Yên Hòa.

 
Cũng như tập THƠ LÍNH CHIẾN MIỀN NAM... tựa của tập thơ này rõ ràng và dứt khoát: THƠ NHỮNG NGƯỜI THUA CUỘC - POEMS OF THE LOSERS. Một tập thơ có chủ đề liên quan đến quá nhiều người mang chung một thân phận và sống với nó trong một khoảng thời gian quá dài; vậy mà, chỉ có 120 bài thơ của 50 tác giả, con số quá ít ỏi, một số lượng quá nhỏ bé so với chủ đề quá rộng lớn của tập thơ. Tôi không biết phải dùng một từ nào khác để gọi tên chính mình và những đồng đội của mình - và dĩ nhiên cả đồng bào của mình nữa. Phủ nhận thân phận của mình, đó là điều tôi chưa bao giờ làm. Mong quý độc giả thông cảm nếu có gì đó không hài lòng về cái tựa tập thơ.

Tôi cũng rất tiếc về sự vắng mặt của một số tác giả thời danh được rất nhiều độc giả ưa thích và sự thiếu sót này có thể sẽ làm số độc giả đó... thất vọng (?).

Những bài thơ này có thể được xem hay không, là tiêu biểu của “những vần thơ thua cuộc” tùy ở nhận định của các nhà phê bình. Tôi chỉ muốn nhắc đến số lượng ít ỏi các bài thơ mà tôi đã chọn, và mong anh chị em hiểu cho, chỉ vì “lực bất tòng tâm”. Công trình của chỉ một người, khó mà tránh được bất cập. Tuy nhiên,về “chất” của các bài thơ, thì tôi thấy nhẹ nhõm và tin rằng mình đã tìm được những bài thơ hay, mặc dù tôi chưa bao giờ là một nhà sưu tập chuyên nghiệp. “Gom” được các bài thơ này, trước hết, tôi phải cảm ơn những tác giả-đồng đội của mình (đa số đã nổi tiếng từ trước 1975), vì họ đã làm ra những bài thơ đó ,để cho tôi có cái may mắn bắt gặp chúng - những bông hoa - trên con đường dài mệt mỏi mình đã đi qua. Đặc biệt, trong tập thơ có 4 tác giả đã qua đời (Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Phan Thịnh, Ngô Đình Khoa và Phạm Văn Bình). Gõ lại những bài thơ của họ, cho vào tập thơ, là để thay lời kính mến và tưởng niệm. Đó là những tác giả tôi thích, cũng như tất cả những tác giả khác. Có vài người vô danh, như tôi; có vài người “không rõ lai lịch”.

Những bài thơ gốc tiếng Việt - tiếng nước tôi - mới là cái lõi, cái cốt tủy của tập thơ, cái chỗ mà những gì sinh sắc nhất, đã ánh lên mỗi lần bắt gặp, nhưng rực rỡ và tồn tại, chứ không phải là những từ ngữ trong bản dịch tiếng Anh mà tôi đã “đánh vật” với chúng trong cả năm qua. Bản dịch tiếng Anh - mục đích rõ ràng là dành cho độc giả nước ngoài - chỉ là cái hình bóng loáng thoáng của những cựu binh QLVNCH sau cuộc chiến... mà diện mạo của họ - bởi vì thua cuộc - nhiều lúc đã bị vô tình, cố ý, làm cho nhòe nhoẹt hoặc bôi đen, bởi những thế lực chính trị không liên hệ gì đến những tác phẩm văn học này. Và những tác giả trong tập thơ này cũng chẳng liên hệ gì đến họ, những thế lực đó.

Tôi đã dịch xong 105 bài thơ trong tập thơ; tôi còn phải dịch 15 bài thơ cuối cùng nữa. Sau đó, phải xem lại để chỉnh sửa, rồi vẽ bìa... và điều quan trọng nhất chính là tìm một NXB ở nước ngoài (Mỹ, Canada,Úc...) để tài trợ cho tập thơ, để cho nó được in ra và phát hành rộng rãi. Ở đây, tôi chỉ có thể tự in thủ công (rất thô sơ bằng photocopy) chừng mươi cuốn, để làm kỷ niệm, mà thôi.

Trước đây, khi thực hiện tập THƠ LÍNH CHIẾN... tôi đã tự mình viết Lời Mở Đầu (Preface) và Lời Giới Thiệu (Introduction) bằng tiếng Việt và Anh; lần này tôi không viết giới thiệu được, vì đã đưa thơ của mình vào (theo đề nghị của một tác giả là người bạn hiền đáng mến ở Mỹ). Tự mình giới thiệu mình tôi thấy ngượng, giống như mình tự bấm like cho mình vậy. Tôi cần một người đọc bản thào cả tập thơ, rồi viết vài trang giới thiệu dùm, mà chưa nghĩ ra, tôi cũng cần cả người biên tập để đọc và sửa chữa các lỗi tiếng Anh nữa; mà việc này hẳn là của NXB (cố GS. Nguyễn Ngọc Bích, bạn của nhà văn Uyên Thao, NXB Tiếng Quê Hương, đã tích cực làm giúp việc này cho tập THƠ LÍNH CHIẾN... in năm 2016). Không phải “dân trong làng”, tôi không biết phải nhờ ai viết cho một bài giới thiệu. Đó là những việc phải làm sau này.

Còn bây giờ, tôi lại tiếp tục với bàn thảo; hy vọng xong trước cuối năm.

 

Nguyễn Hữu Thời - 2/10/2018

 

  blank

 

120 poems by 50 authors

 

After nearly a year of working, now I have collected 120 poems  written by 50 authors to be included in POEMS OF THE LOSERS, as listed  below:
 

Chu Vương Miện  Dư Mỹ  Đăng Nguyên  Đức Phổ  Hà Thúc Sinh  Hạ Quốc Huy  Hòa Nguyễn  Hoài Ziang Duy  Hoàng Lộc  Hồ Chí Bửu  Hồ Minh Dũng  Huy Uyên  Lâm Chương  Lâm Hảo Dũng  Lê Mai Lĩnh  Luân Hoán  Lữ Quỳnh  Mường Giang  Nguyễn Dương Quang  Nguyễn Đăng Trình  Nguyễn Đông Giang  Nguyễn Hữu Nhật  Nguyễn Hữu Thời Nguyễn Hữu Thụy Nguyễn Nam An  Nguyễn Ngọc Nghĩa  Nguyễn Phan Thịnh Nguyễn Phúc Sông Hương  Nguyễn Tư  Nguyễn Văn Ngọc  Ngô Đa Thiện  Ngô Đình Khoa  Như Không  Phạm Quang Ngọc  Phạm Văn Bình  Phan Ni Tấn  Phan Xuân Sinh  Phương Tấn  Quan Dương  Thái Tú Hạp Thiếu Khanh  Thy Lan Thảo  Trang Châu  Trạch Gầm  Trần Đình Thao  Trần Hoài Thư  Trần Thanh Ngọc  Trần Văn Sơn  Trần Vấn Lệ  Trần Yên Hòa.
 

Like ARVN Soldiers’ Poetry, the title of this poetry collection is clear and definitive: POEMS OF THE LOSERS. It’s an anthology that has a theme relating to so many people who share the same fate to live with for a very long period of time; nevertheless, it only consists of 120 poems by 50 authors, a very small figure, a true fewness apparently irrelevant to the broad meaning of its title. I don’t know any other word I should use to exactly call myself and my companions-in-arms and of course my fellow- citizens. Denial of my condition is what I have never done. I expect an understanding from the readers who, I think, may not be happy with the title of this anthology.

I am also sorry for having missed some of the famous contemporary poets whose works have been admired by a large number of readers and this shortcoming may make them disappointed (?)

Whether or not the verses herein are considered the typical ones ever written by the losers are up to literary critics. I only want to mention the fewness of the poems selected and to tell the reason for that, it is simply because “the spirit is willing but the flesh is weak”. A project by only one man can hardly be free from defects. However, as far as the “quality” is concerned, I feel relief and confident of my choice although I am never a professional collector. Having been able to select these poems, first I wish to thank the authors (Most of them were well-known before 1975) for having written the poems so that I could find them-the beautiful flowers- on the roads of my tiring journey. Particularly, there are herein the poems of four deceased authors (Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Phan Thịnh, Ngô Đình Khoa, Phạm Văn Bình). Typing out their verses for insertion in this anthology, I want to express revere and love, for them and to the memory of them. They are among my favorite authors like many others. There are herein some almost unknown authors- like me- and some others whose biographic information is not available.

The original poems in Vietnamese- my mother tongue- are the core, the soul of the anthology where the most profound goodness glitters and touches us eternally, not the words and expressions in the English versions with which I have “struggled” for almost the whole of the year. The English versions which are obviously intended for English readers are just the obscure images of these ARVN veterans after the war when their real aspects - simply because they are the losers- are intentionally or unintentionally stained or blackened by the influential political camps who have nothing to do with these literary works. And the authors of these works surely have not anything to do with them either.

So far I have translated 105 poems; I have to translate the last 15 ones. After that, I have to revise all of them, one by one, to correct the mistakes found,then I have to sketch the front cover…and most important to find a foreign publisher who is interested in bringing out the book and selling it world-wide. Here in Vietnam I can only make a few rude copies through a copying machine, as a souvenir.

Formerly when working at ARVN Soldiers’ Poetry… I myself wrote the Preface and Introduction in both Vietnamese and English; this time, I am not in a position to write an introduction to the book because I have inserted my own poems in it (following the idea of a likeable author, a good friend in the States) I always feel somewhat ashamed at introducing myself, it is very much like clicking a “like” for my own post. I need someone to read through the manuscript then write an introduction with objective opinions, but I cannot think of any particular person to do it. I also need an editor to read through the book then carefully polish the English and correct the mistakes if any; I believe this work is to be arranged by the publishing house (Late Prof. Nguyễn Ngọc Bích, a friend of writer Uyên Thao, TQH Publishing House, had helped very effectively in doing editorial works to SOLDIERS’ POETRY …that was published in June 2018). Since I am not in the literary world, I don’t know who to turn to for help with an introduction to this anthology. It’s something to be done later.

For the time being, I have to get back to work, at the manuscript; I hope it will be finished before the end of this year.

 

Nguyễn Hữu Thời - 10/2/2018

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.