Hôm nay,  

Ảnh hưởng của thời thế trong thơ Vũ Hoàng Chương

03/12/201907:04:00(Xem: 7017)

Ảnh hưởng của thời thế trong thơ Vũ Hoàng Chương

T
rần Từ Mai

 
 Thi sĩ Vũ Hoàng Chương mở đầu tập thơ Rừng Phong (Sàigòn : nxb Phạm Văn Tươi, 1954) bằng bài “Nguyện cầu.” Trong bài ấy, ông đã viết:
        Ta van cát bụi trên đường
        Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
        Để ta tròn một kiếp say
        Cao xanh liều một cánh tay níu trời.

blankPhoto by Lê Văn Tư 
  
Tới đây, trong bản in đầu tiên của Rừng Phong, ông viết:
        Nói chi thua được với đời
        Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu …
Sáu năm sau, khi lại in bài ấy vào thi tập Cảm Thông (Sàigòn, 1960), ông đổi lại hai câu:
        Để ta tròn một kiếp say
        Cao xanh liều một cánh tay níu trời
        Thơ ta chẳng viết cho đời
        Không vang nhịp khóc dây cười nào đâu.
        Tâm hương đốt nén linh sầu
        Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi…
Thi sĩ như muốn nói, thơ của ông không phải là những tiếng cười nhịp khóc viết cho thế gian (không phải loại thơ “thương vay khóc mướn”), mà chỉ là nén tâm hương của một người “nhớ Quê” đốt lên để cầu nguyện.
Trong cuốn Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Sàigòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), họa sĩ Tạ Tỵ, một người bạn văn nghệ chí thân của thi sĩ Vũ Hoàng Chương từ năm 1943, một người tự thú là mê thơ VHC đến độ “thuộc hết tập Mây lúc nào không hay,” gọi thơ Vũ Hoàng Chương là “tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc.”
Khởi từ mối tình đầu tan vỡ:
        Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đau buồn trong nhiều năm, rồi nhìn ra một xã hội với nhiều điểm yếu kém trong một đất nước đang bị đô hộ, ông có thái độ bi quan:
        Ôi lòng ta sao buồn không nguôi
        Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi
        Há vì cơm áo chẳng no lành
        Há vì đời không ai mắt xanh
        Nhớ thuở xưa chưa có ta hề đường đi thênh thênh
        Kịp tới khi có ta hề chông gai mông mênh…
                        (“Túy hậu cuồng ngâm”—Mây)
       
Ông băn khoăn về ý nghĩa của cuộc đời:
        Trải mấy hoang mang tìm kiếm
        Lòng sao khát mãi chưa vừa
        Đôi lẽ Có Không màu nhiệm
        Đêm đêm ta hỏi người xưa.
        Đuốc kim cổ, đây lòng ta thành kính
        Hội trầm luân cùng ý thức Huyền Vi
        Mà sáu nẻo hôn mê còn chửa định
        Ta về đâu? Kìa Ngươi đến làm chi?
        Phải chăng muôn kiếp nặng nề
        Từ Hư Không tới, lại về Không Hư
        Lẽ nào mộng cả thôi ư?
        Người ơi! giọt bể chứa dư tang điền.
                        (“Bài ca siêu thoát”—Rừng Phong)
Ông từng mơ một lối sống thoát tục:
        Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
        Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài
        Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
        Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
        Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
        Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền, xin ghé bến hoang sơ …
                        (“Phương xa”—Thơ Say)
Trong “Đào hoa nguyên ký” (bài ghi chép về chuyện “Nguồn hoa đào”), nhà văn Đào Tiềm (365-427) đời Đông Tấn kể lại rằng: Trong niên hiệu Thái Nguyên của vua Hiếu Vũ đế (376-396), có một người đánh cá ở Vũ Lăng (nay là tên một quận của tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) đi ngược theo dòng khe khá xa, bỗng gặp một rừng hoa đào rất đẹp mọc sát bờ. Người ấy cho thuyền tiến thêm thì thấy hết rừng đào là một ngọn núi. Núi có hang nhỏ, mờ mờ như có ánh sáng. Người ấy bèn rời thuyền, theo cửa hang tiến vào. Lúc đầu hang rất hẹp, nhưng sau mở rộng ra, sáng sủa. Vào sâu bên trong thấy có nhà cửa tề chỉnh, dân cư sống vui vẻ. Hỏi ra mới biết tổ tiên của những người ấy trốn loạn đời Tần, đưa vợ con, thân quyến tìm tới nơi hiểm trở xa xăm này, rồi không muốn trở ra nữa. Họ “không biết là có đời Hán, nói chi đến đời Ngụy, đời Tấn.”Người đánh cá được cư dân trong động mời về nhà chơi, vui vẻ thết đãi suốt mấy ngày. Khi từ biệt ra về, có người căn dặn, “Đừng kể cho người ngoài hay làm gì.” Sau khi về, người ấy đến quận trình với quan Thái thú. Quan cho lệnh trở lại để tìm nhưng dấu vết đã mờ, không nhận ra đường cũ nữa.
Trong bài “Đào nguyên lạc lối” (Mây, từ trang 75), thi sĩ Vũ Hoàng Chương tóm lược lại câu chuyện ấy:
        Ven giải Đào nguyên buộc thuyền cửa động
        Dấn bước xem trời mở cuối hang sâu
        Ôi thời gian sông núi vẫn tươi màu
        Thuở Tần loạn xưa kia tìm trốn tránh
        Dắt díu nhau lạc vào nơi tuyệt cảnh
        Mươi lăm nhà riêng chiếm một Thiên thai
        Nỗi hưng vong chi xá việc bên ngoài.
Ông ao ước tới được chốn đó:
        Ôi lòng ta khao khát tới Đào nguyên.
Nhưng trên thực tế, Vũ Hoàng Chương đã không trốn được cuộc đời và việc đời. Thơ của ông vẫn bị thời thế chi phối một cách rõ nét. Vốn giàu tình cảm, thi sĩ Vũ Hoàng Chương luôn luôn tha thiết với người và với đời.
TỪ KHI CÒN TRẺ TỚI NĂM 1945 (khi Vũ Hoàng Chương được 30 tuổi)
Vũ Hoàng Chương cho biết ông sáng tác bài “Trả ta sông núi” (năm 1944, khi ông 29 tuổi) là do lời yêu cầu của Thế Lữ, người đang điều khiển ban kịch Anh Vũ và cần một bài khai từ cho vở kịch “Nguyễn Thái Học” sắp được trình diễn. Tuy nhiên, sự việc ông – ngay sau khi được yêu cầu -- phấn khởi thức suốt đêm, “sáng lúc nào không hay,” để hoàn tất một bài trường thi dài 120 câu với nhiều đoạn thật hứng khởi, đầy cảm động về những gương tranh đấu trong lịch sử dân tộc, cho ta thấy ông vẫn quan tâm đến đất nước, sẵn sàng góp tiếng nói trong việc tranh đấu cho nước nhà thoát cảnh bị đô hộ:
        Cửa HàmTử vắng teo vết Cáo,
Bến ChươngDương cướp giáo quân thù.
Trận Đà Mạc dẫu rằng thua,
Làm Nam quỷ, chẳng làm vua Bắc đình.
Chém kiêu tướng đồn binh TâyKết,
Triều Phú Lương gầm thét giang tân
"Phá cường địch báo hoàng ân"
Trẻ thơ giòng máu họ Trần cũng sôi.
Kìa trận đánh bèo trôi sóng dập,
Sông BạchĐằng thây lấp xương khô
Những ai qua lại bây giờ,
Nghe hơi gió thoảng còn ngờ quân reo.
hay:
       
Chống ngoại địch gươm mài quyết chiến,
Voi QuangTrung thẳng tiến kinh kỳ;
Phá Thanh binh trận Thanh Trì,
Sông Hồng khoảnh khắc lâm ly máu hồng.
Núi rậy sấm cho Sông lòe chớp,
Cờ TâySơn bay rợp BắcHà
Xác thù xây ngất Đống Đa
 Bụi trường chinh hãy còn pha chiến bào.
Tinh thần độc lập nêu cao,
Sài lang kia, Núi Sông nào của ngươi?
Ông kết thúc bản trường thi bằng một lời kêu gọi:
Ôi! Việt sử là tranh đấu sử
Trước đến sau cầm cự nào ngơi
Tinh thần cách mạng sáng ngời
Bao người ngã, lại bao người đứng lên.
Ngày nay muốn Sông bền Núi vững
Phải làm sao cho xứng người xưa
Yêu nòi giống hiểu thời cơ
Bốn phương một ý phụng thờ Giang sơn
Đùng lo yếu, hãy chung hờn
Cần câu đánh giặc từng hơn giáo dài.
Chúng ta có thể nói: thi sĩ Vũ Hoàng Chương vẫn luôn luôn quan tâm đến đất nước.
 
GIAI ĐOẠN 1945-1949
Các tài liệu về Vũ Hoàng Chương đều cho biết là trong giai đoạn này ông có tập Thơ Lửa, cùng làm với Đoàn Văn Cừ, gồm những bài thơ đề cao cuộc kháng chiến chống Pháp, do Cơ quan Kháng chiến Liên khu III xuất bản, được in ở Thái Nguyên năm 1948.
Tập thơ này hiện vẫn chưa tìm ra. Chúng tôi mới sưu tầm được hai bài...
 
Xin mời xem tiếp:  http://tranhuybich.blogspot.com/
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.