Hôm nay,  

Ngày Của Mẹ

09/05/202010:52:00(Xem: 3456)

A white flower on a plant

Description automatically generated

                                                                                                                                                                                                    

Tôi đến thăm nghĩa trang vào lúc trời đã ngả về chiều. Nghĩa trang của dòng tộc tôi nằm sát chân núi Cà Đú, một rặng núi cuối cùng của dãy Trường Sơn, nằm về phía Bắc thị xã Phanrang chừng 10 cây số. Cách đó không xa hai đỉnh núi Đá Xanh, Đá Mài thuộc dãy Trường Sơn vẫn còn sáng chưa kịp ngả sang màu tím sậm. Gần kề bên con lộ một Nghĩa Trang Liệt Sĩ, ‘mộ bia đề như nấm’ như trang sử mở âm thầm khuấy động những nỗi buâng khuâng.

Tôi thắp nén nhang và đặt trên phần mộ Mẹ tôi một bó hoa huệ trắng. Mẹ tôi nằm ở đây đã hơn 20 năm, và bà mãi mãi ở tuổi 93. Nghĩa trang chiều hôm nay trông bao la yên ắng, chỉ nghe tiếng lá rừng xao xác, tiếng rì rào mơ hồ vọng về từ cõi hư vô. Khói nén nhang lan tỏa vây quanh bia mộ, hoa huệ trắng thơm tím chiều hoang vắng. Trong khoảng không gian tĩnh lặng ấy, tôi chơt nghe mấy hồi chuông vẳng từ “Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ” ở bến đò Tri Thủy. Hình như đã đến giờ cầu kinh chiều. Lòng tôi chùng xuống nhớ thương Mẹ vô hạn khi đứng trước cảnh rừng chiều hoang sơ. Tôi bưng mặt khóc, như chưa bao giờ được khóc. Tôi khóc rống lên với tất cả nỗi niềm nhớ nhung triều mến và lòng biết ơn Mẹ chất chứa trong tôi, chưa kịp thưa với Mẹ trước khi bà qua đời. Con xin cảm ơn Mẹ những đêm và những tháng ngày Mẹ lo âu cho số phận của con trên bước đường lưu vong xứ người. 



Nhìn lên bầu trời nắng hòang hôn, một buổi chiều vàng đang trải rộng thênh thang trên nghĩa trang. Gió Trường Sơn thổi về mang theo khí mát lạnh. Nơi đây luôn vẫn là nơi cô tịch với thế giới bên ngoài. Không một ai có thể ngờ biết bao hệ quả của chiến tranh và những cuộc biển dâu đã từng đi qua nghĩa trang này. 

Tôi là người duy nhất đến viếng mộ Mẹ hôm nay, nhân Ngày Của Mẹ. Tôi đến thăm lại con suối xưa, mang ánh nắng hòang hôn miệt mài chảy dọc theo nghĩa trang. Lòng suối trong vắt với những viên đá cuội tròn trịa lấp lánh những mảnh kim khí nhỏ li ti óng ánh màu vàng. Ở tuổi ấu thơ tôi thường nhặt lấy đem về khoe với Mẹ như những viên ngọc quí đầu đời. Những viên đá cuội vẫn còn đó, lấp lánh dưới ánh mặt trời, nhưng con suối và tôi đã hoàn toàn thay đổi. Con suối xưa trông chừng như nhỏ lại, còn tôi thì già đi. Câu bé năm xưa nay là một lão già ở tuổi tám mươi lăm. Bỗng dưng tôi muốn khóc như đưa trẻ thơ khi biết mình không còn mẹ.

Mặt trời đã khuất sau dãy Trường Sơn. Hai đỉnh núi Đá Xanh, Đá Mài đã lẫn trong bầu trời chạn vạn. Chợt một vùng ánh sáng lóe lên và nhiều tiếng bom nổ nghe chừng ở tận dãy Trường Sơn. Tôi giật minh thức giấc, nhìn qua khung cửa sổ, tôi nghe thấy sấm chớp. Ngoài kia hình như trời đang chuyển mùa. Tôi bật đèn sáng đến kéo kín các màn cửa sổ. Tôi ngả người nằm xuống bên canh vợ. Vợ tôi  đang ngon giấc nhưng hai khóe mắt của bà loan loáng nước mắt. Tôi tăt đèn và cố ru giấc ngủ với một ít băn khoăn...Chợt vợ tôi xoay người lại, đưa tay choàng cổ tôi hôn tha thiết, nói: Sáng mai Chủ nhât 10 tháng 5- là Ngày Của Mẹ. Vợ chồng mình nhớ đi viếng mộ Mẹ em ở nghĩa trang Evengreen Cemetery. Nhớ nghe anh.../.   

Đào Như

Chicago

Viết vào ngày giỗ thứ 23 của Mẹ chúng tôi.






 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.