Hôm nay,  

Hoa Trong Rác, Rác Trong Hoa

17/07/202000:00:00(Xem: 3569)

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 01

Hình bìa sách “Novice To Master.”

                                                                                                
“Không có gì là rác!”

           
Đó là bài học đầu tiên đại-sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử ông vừa thâu nhận, sau này chính là thiền-sư Soko Morinaga,  nổi tiếng của xứ Phù Tang.
           
“ There Is No Trask!” (Không có gì là rác!) là một, trong những lời thiền-sư Soko Morinaga tự thuật, gom chung trong tác phẩm “Novice To Master” đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
               
Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu…
           
Soko Morinaga cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường, nhưng đành chào thua cuộc vật lộn cam go đó khi cái bao tử trống rỗng thường xuyên lên tiếng kêu khóc!
           
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đã dẫn bước chân vô định tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo.
           
Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn bấm chuông. Người mở cửa chính là đại-sư Zuigan Goto.
           
Soko ngỏ lời xin được Ngài thâu nhận làm đệ tử.
           
Đại-sư nhìn từ đầu đến chân, người thanh niên tóc tai bờm sờm, áo quần nhầu nát, rồi chỉ hỏi một câu duy nhất:

-Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được  gì, chỉ phí công ta thôi.
           
Tất nhiên, Soko hấp tấp trả lời:
           
-Con xin hết lòng tin tưởng Sư Phụ.
           
Đại-sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
           
-Theo ta.
           
Soko líu ríu đi theo. Tới góc sân, đại-sư chỉ cây chổi tre và ra lệnh:
           
-Quét dọn vườn!
           
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại-sư đã dễ dàng thâu nhận mình.
           
Công việc quét vườn thì có chi là khó. Soko hăng hái quét, quét, và quét, không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô.

Dừng chổi, Soko đến trước đại-sư, nãy giờ vẫn đứng ở cuối sân quan sát. Soko lễ phép hỏi:
           
-Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?
          
Bất ngờ, đại-sư quát lên:
           
-Rác? Mi nói chi? Không có gì là rác cả! Đồ ngu!
           
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm vừa gom được, không hiểu đây không là rác thì là gì?
           
Còn đang lúng túng thì đại-sư lại sai:
           
-Vào nhà kho kia, lấy cái bao nhựa lớn ra đây.
           
Khi Soko tìm được bao nhựa mang ra thì thấy đại-sư đang dùng hai tay gạt đám lá khô sang một bên và bảo:
           
-Mở rộng miệng bao ra.
           
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy mình quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại dậm dậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
           
-Đem bao lá này vào nhà kho, để dành mùa đông đun nước tắm.
           
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ, còn đống đất, đá, không phải rác thì sẽ dọn đi đâu?
           
Ấy thế mà, khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại-sư đang lượm những viên sỏi và đá vụn, để ra một bên. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa nói, vừa sai:
           
-Có thấy hàng hiên ngay dưới ống máng sối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa từ máng sối xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi và đá vụn này ra, trám vào những chỗ đó.
           
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên.
           
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao, khi Soko quay lại sân, thấy Đại Sư  đang thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu lên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lồi lõm trên mặt đất, từ tốn trám vào.
           
Bây giờ thì đống rác không còn đó, nhưng cũng không phải là đồ phế thải vô dụng, quăng đi đâu. Mỗi loại rác đều đã được tận dụng để làm đẹp thêm những gì chưa-phải-là-rác.         
           
Chỉ với công việc tầm thường trong ngày đầu nhập viện, Soko đã được thầy mình chỉ dạy để thực hành chân lý căn bản của Đạo Phật mà Soko không ngờ. Chính chân lý đó, khoảnh khắc đó, đã là đạo lộ dẫn bước chân một kẻ cùng đường, trở thành vị Thiền sư, ảnh hưởng đời sống tâm linh của bao môn đồ khắp năm châu bốn biển.
           
Dọn vườn, gom rác, để được học từ đống rác: “Từ nguyên thủy, dù là người hay vật đều không gì là rác cả!”
           
Có phải lời dạy này khai triển ấn chứng từ kim khẩu Đức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài vừa bừng giác ngộ, nhận ra mọi chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng như nhau, chỉ do màn vô minh che phủ không đồng mà căn cơ sai khác, nhưng bản chất đích thực thì: “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”.
           
Đức Phật thường giảng pháp trong thế ngồi liên-hoa-tọa (padmasana) với hai bàn tay mở rộng, biểu lộ sự thanh cao và không có chi dấu diếm. Dường như không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ từ bi khuyến khích và xác quyết với môn đồ rằng “Pháp ta như thế… như thế… Ai hành trì đúng thì sẽ đạt thành quả như ta, không khác.”
           
Là phàm phu - nghĩa là còn trên con đường từ Phật Sẽ Thành, tới Phật Đã Thành - mấy ai dám tự tin không phạm lỗi lầm? Mỗi sớm mai thức dậy, chỉ vừa bước ra khỏi giường là đã có thể phạm lỗi. Từ những lỗi tinh vi do ý chợt vô tình vọng khởi, tới những lỗi không tránh được, do bao kiết sử còn vương mang.

Cha lành biết thế, nên Ngài đã trấn an các con: “Có hai hạng người đáng quý. Hạng thứ nhất là chưa từng phạm lỗi. Hạng thứ hai là biết có lỗi, mà thực tâm sám hối để chuyển hóa”.

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 02

Hình minh họa hoa.


Soko đã may mắn gặp được minh sư, nên ngay phút đầu tiên đã được thầy  dạy bài học chuyển hóa, thực hành ngay nơi việc làm đơn giản mà cảm nhận thân này đáng quý, thân này là chiếc bè đưa ta qua sông, thân này không phải rác, dù gặp nghịch cảnh đau thương nào…

Hoa trong rác
Rác trong hoa
Không gì là rác,
Không gì hoa!
Rác mà chuyển hóa, là hoa thắm
Hoa tàn với rác, có đâu xa!
Ngũ uẩn giai không, vô sở trụ
Duyên sinh thành hoại,
Tự tâm ta!

 
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất – quét dọn tiểu viên)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Văn học về sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết là một chủ đề cần thiết cho nhà văn sáng tác tác phẩm hư cấu bằng tiếng việt. Những nhà văn không học tập theo lề lối chính quy thường tự tin vào khả năng sáng tạo bẩm sinh và khả năng thu thập kinh nghiệm, gọi là “khiếu”, để trở thành nhà văn tự nhiên, cũng đôi khi là nhà văn bỗng nhiên. Những nhà văn được huấn luyện từ trường ốc, nếu không thường xuyên cập nhật văn học sáng tác đương đại, sẽ lỗi thời. Những nhà văn nổi bật trong lịch sử văn chương, thông thường là những người có khả năng tự học rất cao. Song song với sáng tác, họ là những nhà văn học lỗi lạc, cho dù, có thể họ không viết một điều gì về nghiên cứu phê bình. Tôi không phải là người có “khiếu” văn chương cao, cũng không thông qua quá trình học viện hoặc trường lớp sáng tác, chỉ có ý thích tìm hiểu văn học và thử nghiệm những gì đã nghiên cứu. [Không phải là lời khiêm nhường mà là lời trung thực.] Và “Nhận Thức Bảy T” là một phần góp nhặt mà tôi đã kinh qua.
Không có gia đình văn chương nào khiến người đời mãi mê nhắc tới như nhà Brontë. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, bao nhiêu thế hệ độc giả, học giả, nghệ sĩ đã lần lượt quay lại ngôi giáo đường nhỏ ở Yorkshire như hành hương về một thánh địa. Những tiểu sử, kịch bản, phim ảnh, cả những vật dụng tầm thường nhất như khăn trải bàn in hình ba chị em, tất cả tạo thành một nền công nghiệp ký ức, một tín ngưỡng lạ lùng quanh họ. Người ta cứ tìm cách viết thêm, kể thêm, như thể câu chuyện Brontë chưa từng trọn vẹn.
126 câu thơ 7 chữ, xứng đáng gọi bài thơ này là một trường ca. Một trong vài bài thơ dài được phân tích và phê bình nhiều lần bởi một số nhà phê bình chuyên và nhiều nhà bàn thơ tản mạn mang tính nghiệp dư. Hầu hết là khen ngợi sau khi giải thích những ý nghĩ tương đối dễ nắm bắt và những ngụ ý, ẩn dụ quen thuộc tạo nên sự dễ dàng cảm nhận. Đó là bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nếu là một bài thơ có giá trị thật hoặc có giá trị bị hoài nghi thì công việc phân tích phê bình bài thơ đó sẽ được tiếp tục qua nhiều thế hệ, ví dụ như chúng ta tiếp tục tìm hiểu và phê phán “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm, hoặc cao hơn là “Kiều” của Nguyễn Du.
... Tôi cảm thấy may mắn vì tôi vẫn có thể kết nối với tổ tiên tôi qua tiếng nói. Nó giúp tôi vững tin hơn vào giá trị những gì tôi hằng tin tưởng và đam mê theo đuổi. Nó phả sức sống vào một người viết lưu vong, cô đơn, tại một bàn viết lữ thứ, cách xa quê hương cả một đại dương rộng lớn...
Khi viết, cô ở trong cơ thể mình, không thể phản bác lại điều đó. Nhưng làm sao giải thích được đồng thới cô cũng ở một nơi khác? Khi viết, cứ như thể cô đang làm việc từ độ cao sáu inch phía trên và ngay trước đầu mình. Nếu năng lượng viết rơi trở lại cơ thể, mọi thứ viết lách đều dừng lại.
Đời Phi Công là truyện vừa, 54 trang, gồm 9 chương. Theo lời tác giả: “Một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời”. Phượng cô em hàng xóm ông dạy kèm ở Hà Nội từ hồi nhỏ. Đầu lá thư ông chỉ viết “Phượng”, trong thư có thêm “Phượng em”!
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.