Hôm nay,  

Hoa Trong Rác, Rác Trong Hoa

17/07/202000:00:00(Xem: 3793)

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 01

Hình bìa sách “Novice To Master.”

                                                                                                
“Không có gì là rác!”

           
Đó là bài học đầu tiên đại-sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử ông vừa thâu nhận, sau này chính là thiền-sư Soko Morinaga,  nổi tiếng của xứ Phù Tang.
           
“ There Is No Trask!” (Không có gì là rác!) là một, trong những lời thiền-sư Soko Morinaga tự thuật, gom chung trong tác phẩm “Novice To Master” đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
               
Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu…
           
Soko Morinaga cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường, nhưng đành chào thua cuộc vật lộn cam go đó khi cái bao tử trống rỗng thường xuyên lên tiếng kêu khóc!
           
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đã dẫn bước chân vô định tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo.
           
Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn bấm chuông. Người mở cửa chính là đại-sư Zuigan Goto.
           
Soko ngỏ lời xin được Ngài thâu nhận làm đệ tử.
           
Đại-sư nhìn từ đầu đến chân, người thanh niên tóc tai bờm sờm, áo quần nhầu nát, rồi chỉ hỏi một câu duy nhất:

-Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được  gì, chỉ phí công ta thôi.
           
Tất nhiên, Soko hấp tấp trả lời:
           
-Con xin hết lòng tin tưởng Sư Phụ.
           
Đại-sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
           
-Theo ta.
           
Soko líu ríu đi theo. Tới góc sân, đại-sư chỉ cây chổi tre và ra lệnh:
           
-Quét dọn vườn!
           
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại-sư đã dễ dàng thâu nhận mình.
           
Công việc quét vườn thì có chi là khó. Soko hăng hái quét, quét, và quét, không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô.

Dừng chổi, Soko đến trước đại-sư, nãy giờ vẫn đứng ở cuối sân quan sát. Soko lễ phép hỏi:
           
-Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?
          
Bất ngờ, đại-sư quát lên:
           
-Rác? Mi nói chi? Không có gì là rác cả! Đồ ngu!
           
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm vừa gom được, không hiểu đây không là rác thì là gì?
           
Còn đang lúng túng thì đại-sư lại sai:
           
-Vào nhà kho kia, lấy cái bao nhựa lớn ra đây.
           
Khi Soko tìm được bao nhựa mang ra thì thấy đại-sư đang dùng hai tay gạt đám lá khô sang một bên và bảo:
           
-Mở rộng miệng bao ra.
           
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy mình quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại dậm dậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
           
-Đem bao lá này vào nhà kho, để dành mùa đông đun nước tắm.
           
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ, còn đống đất, đá, không phải rác thì sẽ dọn đi đâu?
           
Ấy thế mà, khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại-sư đang lượm những viên sỏi và đá vụn, để ra một bên. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa nói, vừa sai:
           
-Có thấy hàng hiên ngay dưới ống máng sối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa từ máng sối xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi và đá vụn này ra, trám vào những chỗ đó.
           
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên.
           
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao, khi Soko quay lại sân, thấy Đại Sư  đang thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu lên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lồi lõm trên mặt đất, từ tốn trám vào.
           
Bây giờ thì đống rác không còn đó, nhưng cũng không phải là đồ phế thải vô dụng, quăng đi đâu. Mỗi loại rác đều đã được tận dụng để làm đẹp thêm những gì chưa-phải-là-rác.         
           
Chỉ với công việc tầm thường trong ngày đầu nhập viện, Soko đã được thầy mình chỉ dạy để thực hành chân lý căn bản của Đạo Phật mà Soko không ngờ. Chính chân lý đó, khoảnh khắc đó, đã là đạo lộ dẫn bước chân một kẻ cùng đường, trở thành vị Thiền sư, ảnh hưởng đời sống tâm linh của bao môn đồ khắp năm châu bốn biển.
           
Dọn vườn, gom rác, để được học từ đống rác: “Từ nguyên thủy, dù là người hay vật đều không gì là rác cả!”
           
Có phải lời dạy này khai triển ấn chứng từ kim khẩu Đức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài vừa bừng giác ngộ, nhận ra mọi chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng như nhau, chỉ do màn vô minh che phủ không đồng mà căn cơ sai khác, nhưng bản chất đích thực thì: “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”.
           
Đức Phật thường giảng pháp trong thế ngồi liên-hoa-tọa (padmasana) với hai bàn tay mở rộng, biểu lộ sự thanh cao và không có chi dấu diếm. Dường như không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ từ bi khuyến khích và xác quyết với môn đồ rằng “Pháp ta như thế… như thế… Ai hành trì đúng thì sẽ đạt thành quả như ta, không khác.”
           
Là phàm phu - nghĩa là còn trên con đường từ Phật Sẽ Thành, tới Phật Đã Thành - mấy ai dám tự tin không phạm lỗi lầm? Mỗi sớm mai thức dậy, chỉ vừa bước ra khỏi giường là đã có thể phạm lỗi. Từ những lỗi tinh vi do ý chợt vô tình vọng khởi, tới những lỗi không tránh được, do bao kiết sử còn vương mang.

Cha lành biết thế, nên Ngài đã trấn an các con: “Có hai hạng người đáng quý. Hạng thứ nhất là chưa từng phạm lỗi. Hạng thứ hai là biết có lỗi, mà thực tâm sám hối để chuyển hóa”.

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 02

Hình minh họa hoa.


Soko đã may mắn gặp được minh sư, nên ngay phút đầu tiên đã được thầy  dạy bài học chuyển hóa, thực hành ngay nơi việc làm đơn giản mà cảm nhận thân này đáng quý, thân này là chiếc bè đưa ta qua sông, thân này không phải rác, dù gặp nghịch cảnh đau thương nào…

Hoa trong rác
Rác trong hoa
Không gì là rác,
Không gì hoa!
Rác mà chuyển hóa, là hoa thắm
Hoa tàn với rác, có đâu xa!
Ngũ uẩn giai không, vô sở trụ
Duyên sinh thành hoại,
Tự tâm ta!

 
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất – quét dọn tiểu viên)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.