Hôm nay,  

Phước Phần Như Thế

24/10/202011:23:00(Xem: 5154)

 Nhác thấy bóng Thomas Le, nhiều người đang tíu tít ở sân chùa bỗng giạt ra. Nếu ai tinh ý một tí sẽ thấy cảnh tượng giống hệt như mặt nước có váng dầu, bỗng nhiên có gịot xà bông rơi vào. Nhiều người biết rõ thằng Thomas Le nhưng mắt ngó lơ, tưởng chừng như đang ngắm cảnh mà không thấy. Một nhóm khác túm tụm bàn tán xì xào vừa chỉ chỏ và liếc ngang liếc dọc. Bà Tư Hồng liếc xéo, nhướng mắt về hướng Thomas Le rồi xí một tiếng sắc như dao cạo.”

 - Đồ bê đê, đồ biến thái! 

 Những tiếng cười khúc khích hưởng ứng, những người xung quanh thêm mắm dặm muối cho câu chuyện thêm phần quái đản và nhiều phần gây nên ác cảm. Bà Bảy Hường chỉ Thomas:

 - Đồ laị cái, đã vậy còn cặp với Mỹ đen nữa chứ! tụi đó dơ dáy, lười biếng thấy mồ! Thằng này chắc thích cảm giác mạnh? 

 Một tràng cười khả ố tán thưởng bà Bảy Hường. Bà Hai Bông đang lặt rau cũng góp lời:

 - Ai đời laị cặp Mỹ đen, tụi nó nghèo mạt rệp, trên răng dưới dái. Tụi bê đê Việt, Mỹ trắng thiếu gì, sao hổng cặp laị cặp Mỹ đen? 

 Chị Tammy Le đang cắm hoa gần đấy, chị nghe tất cả, lòng buồn nhưng chẳng biết làm sao, đây cũng chẳng phải là lần đầu chị nghe người ta xỏ xiên con trai chị. Tuy cùng bổn đạo, cùng đi chùa, bình thường gặp mặt thì cũng chào hỏi nhưng quay lưng đi là xoi bói, bươi móc không tha. Chị nhiều lần khóc thầm vì những lời  ác ý dù là vô tâm hay hữu tâm ấy. Chị tập làm lơ nhưng không khỏi xót xa khi nghĩ đến con. Người ta bảo “ Cha mẹ sanh con trời sanh tánh”. Ai cũng muốn con mình khoẻ mạnh, thông minh, phát triển tốt. Đâu có ai mong con mình phải khác người, để rồi nhận lấy sự chê bai, kỳ thị! Phước phần mỗi người mỗi khác, cái nhân quá khứ khác nhau thì làm sao có cái quả đồng nhau được! Từ khi thằng Thomas dậy thì, chị đã phát hiện ra những dấu hiệu khác thường của nó, càng lớn thì càng lộ rõ. Chị chưa hề thấy nó có bạn gái hay cặp với cô nào, toàn là chơi với bọn con trai, thậm chí có lần chị còn thấy nó ôm bạn nó ngủ ở dưới basement, lúc đầu chị cũng tưởng là bạn bè thân thiết, nhưng sau đó thì chị biết rõ nó là gay. Chị bắt gặp nó hôn môi với thằng Andrew J. Chị đứng như trời trồng, không biết nói năng gì, cũng chẳng biết phải nên làm gì nữa. Những ngày sau đó không khí trong nhà nặng như đông đặc laị, nước mắt chị chảy ra không buồn lau. Tánh chị xưa nay hiền, lặng lẽ giờ càng lặng lẽ hơn. Chị thương con đứt ruột, không hề la hét nó bao giờ, giờ biết sự thật vậy thì lòng càng lo lắng cho tương lai của nó. Thằng Thomas thấy mẹ nó buồn, lòng nó cũng đau buồn lắm nhưng nó không thể sống khác được, sinh ra như thế thì làm sao có thể thay đổi được bây giờ? thấy mẹ nó đau khổ, nó cũng dằn vặt trong lòng lắm. Nó đâu có muốn thế, nó hoàn toàn không có cảm xúc gì với con gái, từ khi dậy thì nó chỉ rung động với con trai mà thôi. Nó vật vã mấy năm trời, cố che giấu thân phận, sợ bạn bè trong trường trêu chọc, sợ bị kỳ thị và bao nhiêu nỗi sợ không tên khác. Nó phải gồng lên, cố tỏ ra nam tính nhưng càng gồng, càng che dấu thì nỗi khao khát của tính dục thật sự laị càng cháy bỏng hơn. Cây kim giấu trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, mọi người phát hiện nó là gay, ban đầu nó cũng từ chối, dùng lý lẽ để biện minh nhưng cuối cùng nó phải đầu hàng và chấp nhận sự thật. Nó đã yêu một bạn trai cùng lớp, thằng đó cũng thương nó, khổ nỗi anh ta laị là Mỹ đen. Số phận thật trớ trêu, đã gay laị còn yêu Mỹ đen, Thomas phải chịu sự kỳ thị gấp hai lần từ những người cùng màu da và văn hoá với mình. Nhiều lúc Thomas muốn rủ Andrew J đi đến những tiểu bang ít người Việt để sinh sống, khổ nỗi nó thương mẹ, nó không muốn bỏ mẹ nó bơ vơ một mình. 

 Chị Tammy ở vậy nuôi Thomas từ khi nó mới lên năm. Năm ấy anh Henry Le về Việt Nam đầu tư làm ăn gì đấy, rồi cặp bồ và ở luôn ở bển không quay laị Mỹ nữa. Chị Tammy còn trẻ đẹp, nhiều người ngấp nghé muốn cặp bồ hay kết hôn nhưng chị từ chối cả. Chị sợ hôn nhân rồi, chị thương Thomas, dồn hết tình cảm cho nó nên không có hứng thú để đi bước nữa. Lúc rảnh rỗi chị lên chùa Hải Lượng để phụ giúp, chị là một trong những người có công lớn với chùa, kể từ khi mới tạo lập. Mỗi cuối tuần chị đều chở Thomas lên chùa để học tiếng Việt, tính sơ sơ mới mà đã hai mươi lăm năm rồi. Tuy cùng làm công quả nhưng cũng có người tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, thấy chị siêng năng và gần gũi với thầy trụ trì nên phao tin chị có tình ý với thầy. Vụ việc gây đàm tiếu, thiếu điều chị muốn bỏ chùa luôn, cũng may sự việc sớm xẹp đi, lời nói vu vơ vô căn cứ ấy đã bị nhiều người thiệm tâm bác bỏ . 

 Phải nói là nhà bếp là nơi mệt nhất, nhiều lúc thầy cũng nhức đầu với các bà, phải phân giải, phải giảng hoà để giữ hoà khí. Chốn ấy luôn có lời qua tiếng laị, nói bóng gió, khen chê… đủ cả. Có khi mới tụng kinh xong, vừa hồi hướng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, tứ hoằng thệ nguyện thuộc lòng như cháo chảy… ấy vậy mà vừa rời Phật điện, xuống đến bếp là lập tức có chuyện ngay: bà này nấu vụng, bà kia làm rối kế hoạch dự trù, bà nọ ăn rồi còn tham đùm túm mang về…

 Một hôm sau khoá lễ, Thomas quỳ thưa:

 - Bạch thầy, con sinh ra vốn đã vậy rồi, tất nhiên chẳng có ai muốn mình như thế cả! con vẫn sống tốt, chẳng hại ai bao giờ, thế mà mọi người vẫn kỳ thị, chê cười. Có người còn lịch sự, chỉ nói bóng gió sau lưng, nhưng cũng có người thô lỗ sỗ sàng lắm. Con có thể chịu đượng được nhưng họ làm cho mẹ con đau lòng, tuy cùng đi chùa nhưng lòng dạ laị nhỏ nhen, kỳ thị, phân biệt nặng nề. Thầy có phương cách gì giúp được chăng? 

 Cả Phật điện như ngưng đọng laị, mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ thằng Thomas đi thẳng vào vấn đề mà không chút e dè sợ sệt như mọi ngày. Hoà thượng Thông Lý hơi ngần ngừ giây lát, sau đó từ tốn :

 - Phàm đã làm người là qúy lắm, còn việc mang thân nam, nữ hay gay ấy là do nghiệp lực và cái nhân trong quá khứ của mỗi người. Hiện tại là người nam, người nữ nhưng một mai hết số thì có chắc được laị thân người nữa không? Con người ta sanh ra, có ai muốn mình là gay hay lesbian đâu? nhưng phước phần như thế thì phải chịu thế. Tổ chưc y tế thế giới ( WHO) công nhận ấy là tự nhiên, chẳng phải bệnh. Đức giáo hoàng John Paul II cũng từng tuyên bố:” Tôi là ai mà có quyền phán xét” khi những thế lực cực đoan bảo thủ đòi ngài phải lên tiếng hay trừng phạt những người thuộc giới LGBT. Đương kim giáo hoàng Francicus cũng mới phát biểu cách đây không lâu, ngài kêu gọi:” Hãy yêu thương con cái của những người đồng tính”. Những lời trên không làm hài lòng giới bảo thủ cực đoan nhưng đã đem laị sự cởi mở hơn và đối xử nhân đạo hơn với những người thuộc LGBT. Con người ta thường có thói quen huà theo số đông, hễ ai khác với số đông thì lập tức kỳ thị, kỳ thị giới tính, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị quan điểm này nọ, kỳ thị cả những người không chịu kỳ thị như mình… Bây giờ giả sử đồng tính chiếm số đông, lúc bây giờ sẽ có kỳ thị ngược laị. Đây đích thực là một vấn đề vô minh của con. Chúng ta là những người tin Phật, học Phật, tu Phật hãy dùng từ bi, hiểu biết mà đối xử với nhau, đừng hành xử theo thói quen đám đông, hay theo cảm tính. Đức Phật từng dạy “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” vậy thì đàn ông, đàn bà, đồng tính, đen, trắng, Tây, Tàu… cũng đều bình đẳng với nhau cả! Mình kỳ thị, nói lời thô ác thì chính mình đang gây khẩu nghiệp xấu vậy.



 Đaị chúng im phăng phắc, chị Tammy cuối gằm mặt, không dám nhìn ai, tay lần tràng hạt. Thằng Thomas vẫn quỳ Đấy, khi hoà thượng ngưng nghỉ một lát, nó laị thưa:

 - Bạch thầy, con biết mình là gay, dù con chẳng đụng chạm ai, vậy mà vẫn bị chửi, cả bạn trai của con cũng bị chửi lây. Con yêu ai là do trái tim con sai xử, bạn trai con da đen nhưng cái tâm sáng. Những người kỳ thị kia chắc gì họ ngon lành hơn những người da đen? 

 Hoà thượng Thông Lý ôn tồn:

 - Vấn đề này có đã lâu, khá phổ biến chứ không chỉ mỗi trường hợp của con. Người Việt mình vốn có tánh kỳ thị nặng, vừa tự tôn ( kiểu Tàu, ta là văn minh còn xung quanh là man di mọi rợ, Chà , Chiêm, Miên, Chiệc, mọi, thượng) vừa tự ti nhược tiểu, xun xoe với Mỹ trắng, kỳ thị với Mỹ đen… quả thật vô lý hết sức! hàng tuần đi chùa, đi nhà thờ, đọc kinh làu làu vậy mà chẳng áp dụng được giáo lý vào thực tế. Chúng ta con nhà Phật, ắt ai cũng biết câu: ” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” ấy vậy mà laị kỳ thị, xúc phạm nói lời thô ác với người da đen. Mình đến xứ này, ít nhiều cũng bị sự kỳ thị của người da trắng, lẽ ra mình phải thông cảm với người da đen mới phải, đằng này laị kỳ thị họ. Chính người da đen đã đấu tranh đòi bình đẳng, chúng ta đã hưởng lợi dù là trực tiếp hay gián tiếp từ những phong trào đấu tranh vì nhân quyền ấy. Người da đen cũng như mọi sắc dân khác, ai cũng có những tính xấu của mình. Người Việt mình cũng khôn lỏi, tàn haị nhau có kém ai. Hai mưới lăm thế kỷ trước, đức Phật đã không chấp nhận sự kỳ thị, phân biệt. Ngài từng nói:” Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn” . Hôm nay đã là thế kỷ hai mươi mốt rồi, lẽ nào chúng ta laị kỳ thị, phân biệt, chúng ta lạc hậu quá! Mọi người cũng nên cẩn thận, ở xứ sở này luật chống kỳ thị rất hữu hiệu, không chừng sẽ rắc rối với pháp luật! thực tình mà nói, chúng ta hưởng lợi lớn từ những phong trào đấu tranh đòi bình đẳng, nhân quyền của người da đen, giả sử không có sự dấn thân của Martin Lutherking và các phong trào đấu tranh ấy, liệu ta có sống dễ dàng với những thành phần da trắng tự xưng thượng đẳng hay những thành phần cực đoan khác? 

 Đaị chúng lao xao, nhiều tiếng xì xào nho nhỏ, có người tỏ vẻ không đồng tình với thầy. Chị Betty T giơ tay phát biểu: 

 - Thầy ơi, tuị con làm nails phải chịu cay đắng với tụi nó lắm, tụi nó tham lam, khó chịu, làm xong quỵt tiền, ăn vạ… rồi cướp giật bóp xách…

 Hoà thượng gật đầu:

 - Đúng thế, đúng là có những việc đó, nhưng không phải tất cả, đó cũng là một đặc tính xấu. Đôi khi mình có thiệt hại một chút nhưng cơ bản là tất cả mọi người bình đẳng với nhau. Mình là Phật tử đi chùa, thờ Phật, lễ Phật thì phải biết áp dụng giáo lý vào cuộc sống, nếu chỉ đọc kinh suông thì chẳng ích gì. Bản tánh vốn khó thay đổi nhưng mỗi ngày mình phải sửa một chút, hôm nay tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn ngày nay ấy chính là biết tu, biết học vậy! Mình đừng kỳ thị, đừng nói những lời gây ác cảm hay đau khổ cho kẻ khác. Đức Dalai Lama dạy:” Nếu mình không giúp được ai thì chí ít mình cũng đừng gây tổn thương cho người khác”. Mình làm tốt, nói tốt, nghĩ tốt cho người khác cũng chính là tạo tác hậu phước tốt cho chính bản thân mình. Thưa đaị chúng thân thương của chùa Hải Lượng, chúng ta gắn bó với nhau hơn mấy mươi năm nay rồi, có không ít người đã ra đi vĩnh viễn, rồi mai đây ai còn ai mất cũng khó mà biết trước được, điều biết chắc chắn là ai rồi cũng phải ra đi. Trước khi mình ra đi thì hãy chuẩn bị chút ít tư lương, nếu ra đi mà không có chút thiện nghiệp nào thì nguy lắm! Các vị có dám hứa với thầy từ bây giờ không nói những lời kỳ thị gây chia rẽ hay đau lòng người? 

 Thầy dứt lời thì đaị chúng đồng loạt giơ tay. Hoà thượng nhìn Thomas với ánh mắt từ bi thông cảm, thầy nói với Thomas mà hình như cũng nhắn nhủ chung với mọi người:

 - Thầy là người xuất gia nên không có phương pháp hay lời khuyên gì với việc thế sự. Thầy chỉ có thể bảo con là cứ sống tự tin ở bản thân mình, không việc gì phải mặc cảm, nghiệp của con thì con chịu nhưng con có thể sửa và chuyển đổi nghiệp, hãy tạo thiện nghiệp để dần dần chuyển hoá nghiệp xấu, biết chuyển nghiệp thì nghiệp xấu sẽ dần dần thành tốt, nghiệp ác sẽ dần dần thành thiện, chuyển bằng cách nào? Mình phải giữ những giới cấm của người Phật tử, làm việc thiện lành. Việc này giống như mình cứ thêm nước tinh khiết vào ly nước mặn, đến một lúc nào đó thì ly nước mặn kia sẽ bớt mặn hoặc hết mặn. Con cứ sống thật với bản thân con, thầy biết có nhiều người trong xã hội che giấu thân phận bằng cách lấy vợ, lấy chồng nhưng vẫn lén lút quan hệ với những người đàn ông hay đàn bà khác. Họ đang tự làm khổ chính họ và làm khổ những người thân chung quanh, điều đó quả thật tệ. 

 Chị Tammy như cởi bỏ được cái gánh nặng u uất trong lòng bấy lâu nay, vẻ mặt dường như tươi sáng hơn, những nét u ám tan bớt, vẻ u sầu cũng vơi đi rất nhiều. Thằng Thomas lạy tạ ơn thầy. 

 Trai đường im lặng trong lúc thọ thực đầy không khí chánh niệm, dường như mọi người chăm chú vào món ăn hơn mọi ngày. Thằng Andrew J, bạn trai của Thomas cũng tập ăn bằng đũa, thỉnh thoảng nó theo Thomas đến chùa, nó không biết gì về đạo Phật nhưng vì thương thằng Thomas nên lẽo đẽo theo. Thomas cũng giải thích cho nó biết chút ít về đạo Phật, điều nó phấn khởi và tin tưởng nhất ở điểm: Đạo Phật không có lên án, kết tội hay nguyền rủa trừng phạt ai cả, kể cả vấn đề LGBT. Đạo Phật dạy nhân quả, gieo gì gặt nấy, nhân nào quả nấy, tâm tưởng sự thành… điều này cũng có điểm tương ưng với văn hoá Mỹ. Văn hoá Mỹ có những câu như:” What goes around come around”, “ Karma is the coner”, “ You are what you think”… Andrew J càng tâm đắc hơn khi thầy nói với nó:” Quá khứ, hiện tại và tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện”. Ông Phật không phải là thần thánh, không có quyền ban phước hay giáng hoạ cho ai cả. Mọi người phải tự chịu trách nhiệm với bản thân mình. Sau bữa ăn trưa, thằng Andrew J hỏi Thomas: 

 - Honey, sao mày lạy ông thầy tu ấy? ông ấy cũng chỉ là thầy tu chứ có phải thượng đế hay thánh thần! 

 Thomas nhìn nó trìu mến:

 - Lạy ở đây là lạy cái bản thể thanh tịnh, từ bi, trí huệ, tỉnh thức của ông thầy chứ không phải lạy cái xác thịt! lạy là thể hiện sự tôn kính nhất vừa buông bỏ cái tôi vốn to như núi của mình. 

 Thằng Andrew J theo Thomas đến chùa, giờ gió cũng ghiền phở chay và chả giò rán giòn, nó còn biết ăn đậu hũ chiên và cả tương chao. Mấy người ngồi cạnh Andrew J trêu: 

 - Mày cưới thằng Thomas đi, nó sẽ làm chả giò, phở chay cho mày ăn thả giàn luôn! 

 Nó cười mỉm nhìn Thomas nồng nàn, tỏ vẻ thích thú với lời trêu đùa đó. Dường như lời pháp của hoà thượng đã có tác động đến mọi người, hôm nay ai cũng tỏ vẻ thân thiện hơn với Thomas và bạn trai của nó. Cô Ba Bụng, chị Chín Cải đến ôm nó và thằng Andrew J:

 - Vui vẻ sống nha em, mạnh mẽ và tự tin! 


Ất Lăng thành, 10/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.