Hôm nay,  

Onusa

21/03/202110:06:00(Xem: 3569)

 


Nó lử lử lừ đừ quạt nhẹ cái vây, sức yếu quá không còn đủ mạnh để bơi ngược dòng hải lưu, có lúc nó nổi phập phều mặc cho con nước đưa đẩy, cái tấm lưng của nó dập dềnh trên mặt nước, bụng quặn đau kinh khủng, cơn đau triền miên kéo dài hai tháng nay. Nó không thiết gì ăn nữa, xung quanh nó những đàn cá hồi, cá he, tôm krill đông đặc như đám mây đen vần vũ. Bình thường thì nó đã há cái mồn to tướng ra cho nước ào ào chảy vào, mang theo bao nhiêu tôm cá, sau đó nó ngậm mồn lại, nước được phun ra qua kẽ răng, còn lũ tôm cá thì lọt xuống bao tử. Giờ thì nó mặc kệ, nó không còn sức để  ăn và linh cảm sắp rời bỏ đại dương rồi. Nó sinh ra và lớn lên ở đây, nó đã làm bá chủ đại dương mười lăm năm nay. Cư dân biển cả lẫn bọn ngư phủ đều kêu nó là nữ hoàng của đại dương. Nhiều kẻ quên cả tên của nó là Mauora, họ chỉ quen gọi nó là “ The queen of the ocean”. Quả thât nó là nữ hoàng của biển cả này, chỉ một cú quạt đuôi hay quăng mình của nó đủ làm kinh động ầm ầm một vùng biển cả. Nước mắt nó chảy ra hòa lẫn nước đại dương. Nó biết nó đang từ giã cõi đời vào cái thời kỳ sung mãn của vòng đời. Những cơn đau của cái bụng đã hành hạ lâu nay làm cho nó kiêt sức. Nó tiếc nuối và lo lắng cho hai đứa con còn nhỏ. Thằng Onusa và con Ohara vẫn bơi kè kè bên hông, hai đứa còn non nớt, vẫn còn uống những giòng sữa cuối cùng mà nó tiết ra. Mauora thều thào

- Mẹ yêu hai con nhưng mẹ không còn ở bên hai con bao lâu nữa đâu. Mẹ đi rồi, hai con hãy nhớ lời này: Đừng bao giờ rời xa vùng nước lạnh và hãy tránh xa những con tàu, những con tàu to lớn hơn cả mẹ nhưng rất nguy hiểm.

Onusa và Ohara thút thít

- Con yêu mẹ, mẹ đừng bỏ con đi!

Nước mắt Mauora chảy những giọt cuối cùng, mắt nó mờ dần, nó cố gắng lần cuối phọt những giòng sữa cạn kiệt vào miệng của Onusa và Ohara. Giọng nó ngút ngút ngắt quãng

- Mẹ yêu hai con...con…

Lời chưa dứt thì hơi thở cuối cùng đã tắt, lỗ thở trên đỉnh đầu phụt lên một làn hơi yếu ớt tạo ra một tí hơi nước rồi tắt lịm. Onusa và Ohara bơi vòng quanh xác mẹ nó mấy ngày liền, sau khi hai đứa biết chắc rằng mẹ chúng nó đã chết, từ đó chúng mới chịu bơi đi. Hai đứa bơi lòng vòng những ngày sau đó với cái bụng trống rỗng, không còn giọt sữa nào. Chúng nó đói, bản năng sinh tồn khiến nó biết cách đi tìm những đàn tôm krill, đấy là món khoái khẩu của dòng tộc nhà chúng. Khi thấy đàn tôm, hai đứa bắt chước mẹ nó, hả cái mồn thật to để cho nướcc biển lẫn tôm krill chảy ào ào vào họng. Bữa săn đầu đời không tệ chút nào, cái bụng của chúng tạm no, chẳng mấy chốc chúng biết cách sinh tồn giữa đại dương mênh mông này. Những ngày sau nữa chúng bơi dần xa hơn chốn cũ để tìm những đàn tôm kirll khác, gặp những con sứa biển đẹp tha thướt chúng cũng nuốt ngon lành.

Một ngày kia hai đứa quá say sưa nên lạc đến một vùng biển lạ, lập tức những con cá khổng lồ như mẹ nó bơi đến ngăn chặn và xua đuổi. Hai đứa đã xâm phạm lãnh hải của những con cá voi khác. Lúc ấy hai đứa thấy một con cá voi con, có lẽ cũng trạc tuổi chúng, con cá voi con ấy bơi đến khoảng giữa mẹ nó và hai đứa

- Mẹ ơi, hai đứa kia dễ thương mà mẹ, để tụi nó chơi với con!

Con cá voi mẹ lắc đầu quầy quậy

- Không được! Chúng ở lại đây thì chúng ta không đủ thức ăn!

Con cá voi con không cần mẹ nó đồng ý, nó bơi sáp lại Onusa và Ohara. Nó quạt đuôi quẫy nước vào hai đứa tỏ vẻ thân thiện

- Các cậu tên gì? Tớ là Muosa, mẹ tớ tên Rouda và ba tớ là Tuoga

Onusa trả lời

- Tớ là Onusa và em gái tớ là Ohara. Mẹ tớ bị đau bụng mới chết tuần rồi, giờ bọn tớ không có mẹ

Muosa mủi lòng

- Thật buồn cho các cậu, hay là các cậu ở lại đây với gia đình tớ?

Không đợi hai đứa trả lời, Muosa bơi lại bên mẹ nó thủ thỉ

- Mẹ ơi, hai đứa nó mới mất mẹ, hãy để hai đứa nó ở lại làm bạn với con!

Rouda và  Tuoga ngần ngừ, thân mình lắc lư trong làn nước mà không nói gì. Muosa reo lên

- Vậy là ba mẹ đồng ý hén!

Muosa lập tức quay lại với Onusa và Ohara, bọn chúng vui đùa ầm ào, tung mình lên hư không và rơi đùng đùng xuống nước. Chúng quẫy đuôi, đập nước ầm ầm, những cơn sóng do chúng tạo nên phá vỡ sự yên lặng của đại dương. Chúng tíu tít như đã quen tự thuở nào. Rouda và Tuoga nhìn chúng trìu mến, không còn ý nghĩ xua đuổi hai đứa nữa. Rouda bảo Tuoga

- Con nít quả thật ngây thơ và trong trắng, chúng đến với nhau tự nhiên, chẳng có khúc mắc và mưu tính như bọn chúng ta.

Rouda và Tuoga bơi rộng vòng ngoài, dường như có ý bảo vệ và cũng tạo khoảng cách thoải mái cho bọn trẻ vui đùa.

Sau mấy mùa băng tan trên biển, cả ba chúng nó phổng phao ra, chúng lớn nhanh như thổi. Onusa giờ tuấn tú dõng mãnh như ba của nó ngày xưa. Mẹ nó từng kể ba nó là một chiến binh vĩ đại của đại dương, là niềm kiêu hãnh của họ nhà cá voi. Một lần kia, khi ba nó phát hiện con tàu khổng lồ có treo mảnh vải trắng với hình tròn đỏ ở giữa. Ba nó rít lên báo động cho mẹ nó và những con cá voi khác hãy lặn thật sâu. Lúc đó nó vừa tượng hình trong bụng mẹ. Ba nó bơi nghễu nghện trước con tàu đó, phụt những vòi nước thật cao để dụ con tàu đi xa khỏi bầy cá voi. Ba nó đã trả giá bằng mạng sống để cứu mẹ con nó và những con cá voi khác. Con tàu có mảnh vải trắng với vòng tròn đỏ đã kéo ba nó lên boong tàu để xẻ thịt. Ohara và Muosa thì ra dáng xuân thì như mẹ của chúng. Dường như Onusa đã đem lòng yêu Muosa, tuy nó chưa đủ trưởng thành nhưng đã tỏ ra dáng vẻ của một chiến binh biển cả và khí độ của một chúa tể đại dương. Muosa thưa với Rouda

- Chúng con đã lớn, mẹ cho phép chúng con chu du một chuyến nhé? Chúng con muốn khám phá những vùng biển mới!

Cả Rouda và Tuoga trìu mến nhìn ba đứa gật đầu. Rouda căn vặn

- Các con hãy lên đường học hỏi để mở rộng tầm nhìn. Các con không thể ở mãi nơi này, nhưng các con cần nhớ rằng: Đừng bao giờ rời xa những vùng nước lạnh, tránh thật xa những con tàu đồ sộ trên mặt biển. Những con tàu ấy có cái lưỡi dài và rộng kinh khủng, chúng sẽ kéo các con lên trên ấy để sát hại. Chúng có những mũi lao to lớn phóng ra cắm ngập vào thân chúng ta, hễ thấy bóng dáng chúng là lập tức bơi thật xa, lặn thật sâu!

Onusa giật mình, những lời này sao giống hệt những gì mẹ nó trăn trối trước lúc chết. Onusa và Muosa lập tức vẫy đuôi bơi đi. Riêng Ohara thì ở lại, nó giờ đã thành mẹ kế của Muosa rồi. Onusa và Muosa bơi từ bình minh cho đến hoàng hôn, rồi hoàng hôn lại đến bình minh, ngày nối tiếp ngày, dặm dài đại dương bao la mở ra những khung cảnh mới lạ. Hai đứa gặp những cư dân biển cả xa lạ mà trước giờ ở vùng biển lạnh chưa hề thấy, thỉnh thoảng hai đứa ngoi lên thấy núi thẳm rừng xanh khác xa với những tuyết sơn băng đảo của quê hương chúng. Hai đứa thấy đói nhưng ở đây tuyệt nhiên không thấy một con tôm krill hay con cá hồi nào cả, bù lại cơ man nào là cá mòi, cá trích, cá đối… và vô số các loại khác nữa. Những đàn cá đông đặc lên đến cả vạn con, những loại cá này quây quần như những cụm mây rồi tản ra như làn khói. Onusa và Muosa không cần tốn sức, chúng chỉ cần hả miệng ra thì bao nhiêu là thức ăn theo dòng nước chảy vào . Hai đứa mải mê với cảnh vật mới lạ mà quên mất lời dặn dò của các bà mẹ. Chúng đã đi quá xa, đã đến vùng biển ấm. Ban đầu chúng thoảng chút lo lắng, nhưng cảnh vật đẹp đẽ làm cho chúng quên mau chóng. Cả hai sung sướng với vùng đại dương nước ấm này. Dáng vóc của Onusa và Muosa kỳ vĩ to lớn, đủ để lũ cá mập vốn hung hăn dữ tợn và phàm ăn cũng phải sợ  mà lảng ra xa.



Một con rùa già dường như đuối sức, mặc cho thân hình dập dềnh bên chúng. Onusa thấy hành vi của con rùa già sao giống mẹ nó những ngày bị đau bụng sắp chết. Rùa già thấy con cá voi quan sát mình nên cất giọng thều thào

- Tôi là Lohuka, tôi đã bảy mươi lăm tuổi rồi. Họ nhà tôi sống ở vùng biển này đã bao đời, chúng tôi thích ăn những con cá mại , rong biển và lũ sứa biển. Ấy thế mà gần đây họ  hàng nhà tôi nhiều người bị đau bụng đến chết vì nuốt sứa biển, đã có rất nhiều kẻ chết, thật không hiểu tại sao! Tôi cũng vậy, bụng tôi đau kinh khủng sau khi nuốt sứa biển. Tôi không còn cảm giác đói, không thể ăn nuốt gì nữa, sức kiệt dần, có lẽ tôi sẽ chết nay mai thôi! Các bạn đừng nuốt lũ sứa biển ấy nữa, kẻo không lại đau bụng đến chết đấy!

Onusa chột dạ, ông ấy sao giống hệt mẹ mình, nuốt những con sứa biển và đau bụng đến chết, những con sứa biển giờ sao mà đầy đặc ở đại dương. Onusa còn nghĩ ngợi thì rùa Lohuka tiếp tục thều thào

- Bọn người trên bờ bỏ vào đại dương vô số rác và những tấm lưới giống như rong biển. Họ hàng tôi và những cư dân biển cả bị vướng vào cổ mà chết ngạt

Rùa già Lohuka chưa dứt lời thì bỗng nhiên xuất hiện một bầy cá heo, chúng nó nô đùa ầm ĩ, thi nhau tung mình nhào lộn trong không trung. Một con cá heo lân la lại gần Onusa, nó nghe rùa Lohuka nói thế bèn góp lời

- Tôi là Potunga, bọn tôi sống ở vùng biển ấm, bọn tôi cũng thích bơi vào gần bờ. Ngày trước gần bờ thức ăn nhiều lắm, nhưng giờ cũng cạn kiệt rồi, vả lại biển gần bờ rất nguy hiểm, nhiều cạm bẫy nào là lưới, cần câu, đăng, đó… Có những vùng biển gần bờ giờ bị bọn người trên bờ xả những thứ nước độc hại, có loại đen ngòm, có loại vàng nhờ nhợ, có loại đỏ lòm...mùi những thứ nước ấy rất kinh khủng. Cư dân biển gần bờ tiếp xúc các loai nước ấy chết sạch ráo. Họ hàng và bạn bè tôi cũng chết khá nhiều vì thứ nước ấy. Nếu chúng ta uống hay bơi trong nước ấy thì sẽ bị lở loét, có kẻ thì chết ngay lập tức nhưng cũng có kẻ lây lất sống dở chết dở.

Onusa và Muosa rùng mình kinh sợ, chúng không ngờ loài người trên bờ độc ác như thế, những thứ nước và rác độc dễ sợ thật. Thân thể chúng chỉ có những mảng hàu và hà bám đủ khó chịu huống chi là chẳng may bị lở loét vì những thứ nước ấy. Con rùa già một lần nữa lấy hết sức tàn lực kiệt để cảnh báo 

- Các bạn cá heo, cá voi và các loài khác hãy cẩn thận! Đừng nuốt những con sứa, tránh mấy tấm rong biển và những vùng nước đổi màu ấy, kẻo không thì chết cả đám!

Nói xong lời này. Rùa già Lohuka tắt thở, xác nó nửa chìm nửa nổi trong làn nước biển, sóng gió đẩy đưa cho đến khi tấp vào bờ. 

Năm ấy, sau khi  the Queen of the ocean chết, xác nó trương phình cứ như một hòn đảo nhỏ giữa biển khơi, sóng nước và gió đẩy đưa cho đến khi mắc cạn ở một vùng biển nhiệt đới. Ngư dân làng chài Nhơn Hải đang đánh cá ngoài khơi trông thấy, họ kêu gọi các tàu hiệp sức kéo xác Mauora vào bờ. Làng chài Nhơn Hải xôn xao hẳn lên, người người đổ ra xem ông lụy, tiếng ông lụy đồn nhanh như gió thổi. Dân chài các làng khác cũng đổ về. Anh Hai Hưng, một bạn đi biển tỏ vẻ ngạc nhiên, lớn tiếng nói to với mọi người đang bâu quanh

- Ông lụy, ông lụy! Tôi chưa từng thấy ông nào to như ông này!

Cụ Bảy Bình, một tay đi biển lão luyện có thâm niên gần cả đời người cũng không ngớt lời

- Tui đi biển từ khi mới mười lăm tuổi, giờ đã bảy mươi lăm rồi. Tui từng nhiều lần thấy ông lụy, nhưng chưa lần nào thấy ông to chà bá như thế!

Cả làng lập tức cúng tế ông, họ bàn bạc và quyết định sau khi ông rũ xương, đem cốt ông thờ tạm ở Hải lăng, sau sẽ xây một cái lăng mới to lớn cho tương xứng với bộ xương của ông này! 

Khi ông được kéo vào bờ, Người của chính quyền sở tại và viện hải dương cũng có mặt. Họ bảo phải để cho họ giảo nghiệm tìm xem lý do cá voi chết. Ban đầu dân làng chài phản đối, nhưng sau khi nghe lời thuyết phục của vị viện trưởng và sức ép của nhà cầm quyền họ mới chịu để cho các nhà khoa học thực hiện giảo nghiệm. Nhiều ngư dân phụ họ xẻ thịt cá voi, các nhà khoa học mổ bao tử cá voi và mọi người kinh ngạc khi thấy có cả trăm ký lô túi nylon, rác thải nhựa, lưới đánh cá… trong bao tử của nó. Các nhà khoa học của viện hải dương viết báo cáo khoa học:

“ Con cá voi Mauora chết vì đói, vì đau bụng. Nó đã nuốt cả trăm ký lô rác thải nhựa, rác thải sinh hoạt lẫn rác thải công nghiệp. Con cá voi này và cũng như những cư dân biển cả khác, chúng tưởng những cái túi nylon là sứa biển, những tấm lưới đánh cá là rong biển. Chúng nuốt vào và chúng bị đau bụng, khi nuốt quá nhiều rác nhựa chúng sẽ không còn ăn gì được nữa vì thế mà kiệt sức và chết đói. Đời sống tự nhiên của đại dương đang bị nguy hiểm, nhiều loài có khả năng tuyệt chủng, rác thải và hóa chất độc hại đang ngày đêm tuồn thẳng vào đại dương. Chúng ta phải hành động, cứu lấy đại dương!...” 

Onusa và Muosa tiếp tục cuộc hành trình của chúng, càng bơi xa hơn càng khám phá thêm những điều mới lạ, những vùng biển mà trước giờ chúng chưa từng nghe mẹ chúng nói đến. Cho đến một hôm cả hai gặp phải một con quái vật to thù lù ở giữa lòng đại dương, vùng nước tối lờ mờ. Con quái vật còn to hơn chúng rất nhiều, nó phát ra tiếng kêu rì rầm, có lúc thì lại rít lên xoen xoét như xoáy vào đầu, những âm thanh thay đổi liên tục. Onusa và Muosa mới đầu định bơi thât gần tính tiếp cận với con quái vật ấy, nhưng âm thanh của nó làm cho cả hai phải lảng ra. Con quái vật vẫn lù lù tiến tới, tiếng kêu con quái vậy làm cho Onusa và Muosa buốt cả óc, cả hai trở nên giận dữ cực độ. Chúng nó quay cuồng hoảng loạn, âm thanh con quái vật làm cho cả hai choáng váng, chúng nó nhắm mắt bơi loạn hướng, không còn khả nặng định hướng nữa, cái khả năng định hướng như cha mẹ và tổ tiên của chúng tự nhiên biến mất. Onusa và Muosa cứ thế bơi cho đến rã rời kiệt sức, chúng muốn quay trở về vùng biển lạnh nhưng giờ không còn biết hướng nào mà bơi, chúng cứ bơi cho đến khi không còn bơi được vì sa vào một vùng biển ấm và cạn cợt. Cả hai nằm thoi thóp, Onusa vỗ về Muosa nhưng lòng của nó cũng hoang mang tột độ. Nó không ngờ lại kết thúc cuộc đời ở vùng biển ấm này. Nó hối hận vì đã không nghe lời nó trăn trối của mẹ nó, không nhớ lời mẹ Ruoda căn vặn trước lúc viễn du. Nước mắt nó chảy ra và lịm đi.

Khi nó mở mắt tỉnh dậy thì có cảm giác cả thân mình nó bị lôi ngược. Nó cố vùng vẫy nhưng cái đuôi có sợi dây buộc. Nó nhướng mắt nhìn về sau thì thấy hai con tàu màu xanh với những sọc đỏ chạy dọc hai bên lườn đang kéo nó ra khơi. Muosa cũng được hai con tàu khác lôi ngược ra xa. Khi cả thân mình to lớn của nó vẫy vùng dễ dàng trong làn nước biển thì sợi dây buộc ở đuôi được tháo ra. Nó ngoái đầu lại kêu “hoop hoop hoop” liên hồi. Nó không biết nói tiếng của loài người, nó cảm ơn những con tàu đã kéo nó về biển sâu bằng âm thanh của nó. Cả hai sung sướng lấy đuôi quạt nước tung tóe như giã biệt những con tàu. Onusa và Muosa ra đến vùng nước sâu hụp xuống rồi cùng trồi lên, phụt hai cột nước thật cao sau đó mới bơi đi. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 02/2021 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.