Hôm nay,  

Kinh Tế Dễ Hiểu: Tiền Đô La Mỹ (Chương 8)

24/05/202109:11:00(Xem: 4402)

ECONOMICS


Bàn về tiền không thể không nhắc đến USD. Nhiều nước ghanh tức Hoa Kỳ được hưởng tiện nghi quá đáng (exorbitant privilege) nhờ vào vai trò của USD trong khi dân Mỹ tức tối họ phải mang gánh nặng quá đáng (exorbitant burden) cũng vì USD. Chính quyền Hoa Kỳ xử dụng USD như một loại vũ khí lợi hại trên bàn cờ địa chính trị quốc tế cho nên trong cuộc tranh hùng Mỹ-Trung việc phá vỡ trận đồ USD dù ít được nhắc đến nhưng quan trọng không kém so với các lãnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, kỷ thuật và quân sự.


Năm 1944 tức gần cuối Thế Chiến Thứ Hai 44 quốc gia tham dự hội nghị Bretton Woods ở Mỹ để tìm một đơn vị tiền tệ quốc tế nhằm giúp cho mậu dịch toàn cầu được suông sẻ, với hy vọng chiến tranh sẽ không xảy ra một khi thương mại được thắc chặc. Lấy thí dụ trước hội nghị nước Anh khi mua bán với Pháp phải đổi tiền Franc, mua bán với Mỹ phải dùng USD hay Yen với Nhật, cho nên thủ tục phiền toái và tốn kém. Kết thúc hội nghị Bretton Woods chọn USD làm đơn vị tiền quốc tế: giá trị USD cột vào vàng, rồi tiền Anh, Pháp, Nhật, v.v… đều neo theo USD. Như vậy hàng hóa mua bán giữa các nước dùng chung một đơn vị đo lường và hoán đổi là USD. Việc này giúp thương mại toàn cầu thuận tiện hơn là đổi tiền riêng lẻ giữa từng cặp hai quốc gia với nhau.


Sang đến thập niên 1960 nước Mỹ thiếu tiền vì chi tiêu quá mức vào chiến tranh Việt Nam và trong cuộc Chiến Chống Nghèo Đói (War On Poverty) của Tổng Thống Lyndon B. Johnson. Các nước lo Mỹ in thêm tiền khiến USD mất giá nên đòi đổi USD lấy vàng. Mỹ sợ hết vàng cho đến năm 1971 Tổng Thống Richard M. Nixon đơn phương tuyên bố Mỹ “tạm thời” không đổi USD ra vàng, thay vào đó thả nổi giá trị USD so với đồng Yen, Mark, Franc, v.v..do thị trường quyết định (“tạm thời” kiểu Mỹ nên 50 năm sau vẫn còn nổi lình bình!)


Năm 1979 Saudi Arabia đạt thỏa thuận với Hoa Kỳ để bán dầu nhận USD (gọi là Petrodollar.) Giá dầu trong cuối thế kỷ 20 lên xuống bất thường nên nước nào nhập cảng dầu cũng phải dự trữ USD.  


Nền kinh tế Mỹ xoay chiều từ sản xuất (manufacturing) sang thiết kế (design), dịch vụ (service economy) và tiêu thụ (consumption); từ xuất cảng sang nhập cảng. Mỹ trước đây là công xưởng của thế giới tự do trong Thế Chiến Thứ Hai nay trở thành thị trường nhập cảng lớn nhất hoàn cầu. Do Hoa Kỳ thâm thủng mậu dịch nên các đối tác thương mại gồm Nhật và các con rồng Đông Á (bán hàng hoá) cùng OPEC (bán dầu hỏa) ồ ạt thu vào những khoảng lợi nhuận khổng lồ. USD lẻ ra theo đó mất giá nhưng để tiếp tục duy trì lợi thế cạnh tranh nên nhiều nước dùng biện pháp thao túng tiền tệ (currency manipulation) bằng cách tích trữ USD không cho lưu hành (cũng giống như đào hồ chứa nước vào mùa mưa: USD bị chận không cho tràn vào thị trường để không mất giá.)


Năm 1998 khủng hoảng tài chánh Đông-Á bắt đầu từ Thái Lan khi tư bản ngoại quốc rút vốn USD tháo chạy khiến đồng Bhat thủng đáy lúc quỹ dự trử USD của Thái cạn sạch. Khủng hoảng nhanh chóng lây lan từ Thái Lan ra toàn vùng Đông Á rồi chạy sang Nam Mỹ và Đông Âu khiến nhiều nhà cầm quyền bị lật đổ như tại Nam Hàn, Đài Loan, Phi, Indonesia, Brazil. Rút tỉa bài học này nên các quốc gia đang phát triễn gồm Trung Quốc, Nga, Nam Hàn, Đài Loan và vùng Đông Nam Á đều quyết định hổ trợ xuất cảng để thu vào USD càng nhiều càng tốt. Các nước trong khu vực Đông-Á tích lũy quỹ dự trử ngoại tệ khổng lồ như một công hai việc: (1) thao túng tiền tệ để tạo lợi thế cạnh tranh, (2) tăng ngoại tệ dự phòng trường hợp tư bản nước ngoài tháo vốn.


Dân Mỹ sướng vì tha hồ mua hàng trả bằng USD (tiện nghi quá đáng – exorbitant privilege) trong khi các nước xuất cảng thu vào USD rồi cất đó mà không dám xài để nâng cao mạng lưới y tế, giáo dục, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường cho dân họ.


Dân Mỹ khổ vì USD giá cao nên hãng xưởng di dời ra nước ngoài khiến công nhân mất việc làm (ghánh nặng quá đáng – exorbitant burden.) Thất nghiệp mà vẫn có mua hàng xài, vậy mới hay!


Nhiều nước dự trữ USD rồi gởi tiền sang Mỹ để kiếm chút đỉnh lời vì Hoa Kỳ được xem như chốn giữ tiền an toàn (safe haven). Mỹ dễ dàng vay mượn với lãi suất thấp nên cả nhà nước lẩn dân chúng đều tiêu xài thẳng tay.


Nước nào cũng cho Hoa Kỳ vay nên nợ công của Mỹ (Treasury Bills, hay T-Bills) có giá trị tương đương USD: thí dụ Việt Nam mua T-Bills của Mỹ nhưng cần tiền mặt trước khi T-Bills đáo hạn; Việt Nam có thể bán T-Bills cho Ấn Độ đổi lấy USD. Như vậy T-Bills và USD giống nhau đến 99.9% (trừ một ngoại lệ vào dịch cúm Tàu tháng 03-2020 chỉ trong vài ngày thị trường không chịu trao đổi T-Bills mà chỉ muốn USD. Lý do trong cơn hốt hoảng cao độ ai nấy chỉ lo thủ vàng và tiền mặt.)


Câu chuyện ngược đời mỗi lần khủng hoảng kinh tế vị trí của đồng USD lại càng thêm vững chắc. Thứ nhất, Hoa Kỳ được xem là nơi gởi tiền an toàn nên gặp lúc khó khăn nhiều nước tranh nhau gởi tiền cho Mỹ với lãi suất thấp. Thứ nhì, các nhà đầu tư trên thế giới thường rút USD tháo chạy khi gặp khủng hoảng: trường hợp năm 1998 Thái Lan cạn USD khiến đồng Bhat thủng đáy là một, nhưng năm 2008 các ngân hàng Âu Châu thừa Euro mà thiếu USD vào lúc tư bản tháo vốn ra khỏi Nam Âu. Cho nên NHTƯ (Ngân Hàng Trung Ương) Hoa Kỳ phải thiết lập khẩn cấp các đường dây hoán chuyển ngoại tệ (currency swap) cung cấp USD cho NHTƯ Âu-Nhật để rồi Âu-Nhật bơm USD vào hệ thống ngân hàng tư và các nền kinh tế của Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai, v.v…tránh tình trạng kẹt vốn dây chuyền. Như vậy vai trò của USD mặc nhiên cũng cố mỗi lần khủng hoảng. 

 

***


Phần trên cho thấy USD vừa là (1) tiền quốc tế cho thương toàn cầu, (2) tiền dự trữ quốc tế. Do chưa ai “chê” USD nên USD tiếp tục giữ ngôi vị thống trị. Người Mỹ gọi USD tạo thành Network Effect tức Mê Hồn Trận cột trói chằng chịt. Nga-Tàu dù tức giận nhưng vẫn chưa gỡ ra nút thắt:


Lý do chính là trong đám mù kẻ chột làm vua. Đồng Euro chưa biết có sẽ tan rã hay không. Đồng NDT (Nhân Dân Tệ, còn gọi là Ren Min Bi tức RMB) do nhà nước Trung Quốc kiểm soát chặc chẻ giá trị thay vì được quyết định bởi thị trường nên quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài e sợ Bắc Kinh vì lợi ích riêng tư mà gây thiệt hại cho họ. USD bị Mỹ chi phối nhưng còn cơm ăn thay vì NDT bị Tàu thao túng chỉ húp cháo. Thí dụ dễ hiểu, đại gia Việt Nam gởi của cải qua Mỹ (hay Âu, Úc) chớ không dại gì chuyển tiền sang Tàu. 


Trung Quốc lại là nước xuất cảng nhiều hơn nhập cảng nên ít có nước nào thặng dư mậu dịch với Tàu hòng tích lũy NDT. 


USD hiện chiếm 60% kho dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới. 60% thương mại toàn cầu dùng bằng USD. 90% các dịch vụ đổi tiền hàng ngày dính líu đến USD. Vì đa số các giao dịch trên quốc tế ít nhiều liên quan đến USD, tức liên hệ đến ngân hàng Mỹ, nên Hoa Kỳ mới có thể đơn phong tỏa thương mại một nước như Iran: Mỹ không cấm được Tây hay Tàu buôn bán với Iran nhưng có quyền chặn không cho tiền thông qua các ngân hàng Mỹ. Điều này cũng như trong quân sự đóng chốt chận tuyến lưu thông.   


***


Đồng USD quá mạnh nên Hoa Kỳ lạm dụng quyền lực này một cách bừa bãi. Các tổng thống từ Dân Chủ cho đến Cộng Hòa đơn phương dùng USD như vũ khí trừng phạt đối phương mà không cần thông qua Liên Hiệp Quốc. Vừa dễ mượn tiền lại in tiền trả nợ nên Hành Pháp lẫn Quốc Hội đều ăn xài thẳng tay, còn việc cãi nhau để cân bằng ngân sách chỉ là vỡ kịch mùa tranh cử dụ khị dân chúng bỏ phiếu cho phe mình. 


Thiệt hại trước mắt là công nhân Mỹ mất việc do giá USD cao nên hãng xưởng di dời ra ngoại quốc khiến Hoa Kỳ gánh chịu lỗ lả khi mua bán với nước ngoài.


Thiệt hại trong tương lai khi nợ nần chồng chất nên thế giới đổi ý không cho vay mượn. Khi đó lãi xuất và lạm phát sẽ tăng vọt ở Mỹ. USD in ra càng nhiều càng mất giá. Nhà nước sẽ phải tăng sưu cao thuế nặng trả nợ khiến dân tình oán than, kinh tế suy sụp.


Nhà tỷ phú dầu hỏa Paul Ghetty từng nhận xét “Nếu bạn mượn ngân hàng $100 phải lo trả. Nếu bạn thiếu $100 triệu đến phiên ngân hàng năng nỉ bạn trả.” (If you owe the bank $100 that’s your problem. If you owe $100 million that’s the bank problem.) Việt Nam cũng có câu chuyện tương tự là người thiếu nợ ngập đầu than vãn với chủ kiếp này trả không xong xin chết đầu thai làm trâu ngựa trả nợ; chủ nợ nghĩ thầm mình lại phải tốn tiền mua trâu ngựa rồi nuôi cho nó ăn, thôi đành an ủi ráng sống để từ từ trả nợ. 


Một ngày nào đó cả thế giới phải nhào vào cứu vớt USD vì Mỹ xập tiệm thì Tàu Việt cũng tiêu!


***


Nhung các đối thủ (Nga, Tàu) hay đối tác (Âu) không chịu thua mà tìm đủ mọi cách phá vỡ vòng kim cô USD để tránh bị phong tỏa kinh tế lại điểm trúng tử huyệt của nền trật tự tự do toàn cầu (liberal world order) do Mỹ gầy dựng trên nền móng USD. Giải pháp nào sẽ hất ngã USD trong khi cả NDT lẫn Euro đều còn ít đáng tin hơn USD? Dưới đây là vài phỏng đoán thay vì dựa trên chứng cớ vững vàng.


Giữa Trung Quốc, Nga và Iran đều thiết lập những đường dây hoán đổi ngoại tệ (currency swap) mà không thông qua hệ thống ngân hàng Mỹ. Thí dụ Iran bán dầu thu vào NDT rồi dùng NDT nhập cảng máy điện toán từ Trung Quốc (với điều kiện các máy điện toán này không chứa đựng bản quyền Mỹ trong đó.) Ngân hàng Iran có thể đổi trước một lượng tiền nội địa ra NDT dự trữ giao dịch mà không cần chờ đợi phải thu NDT từ bán dầu mới mua hàng Trung Quốc. 


Trung Quốc hiện là đối tác thương mại hàng đầu của nhiều quốc gia nên Bắc Kinh muốn biến Đông Nam Á thành khu vực mậu dịch bằng NDT: các nước Đông Nam Á mua bán lẫn nhau và với Trung Quốc dùng NDT, còn giao thương ra thế giới bên ngoài tiếp tục dùng Euro, Yen hay USD. Mô hình này có thể lan sang cả Phi Châu và Nam Á là những khu vực mà Trung Quốc có ảnh hưởng rất mạnh. Giao thương như vậy thuận tiện vì trao đổi trực tiếp trong khu vực và với đối tác thương mại quan trọng nhất bằng một đơn vị tiền chung (NDT) mà không phải đổi ra một đồng tiền thứ ba (USD, Euro.) Một nước như Việt Nam nhập siêu với Trung Quốc (thiếu NDT) mà xuất siêu với Mỹ (dư USD) có thể đổi USD ra NDT mua bán hàng từ Trung Quốc hay các lân bang.


Ant Group (thuộc Alibaba) và WeChat là hai tập đoàn tài chánh điện toán lớn và thành công nhất thế giới nhằm cung cấp dịch vụ cho vay, mở trương mục và mua bán dùng NDT - tức là giống như ngân hàng. Vì là ứng dụng trên điện thoại cầm tay nên hai tập đoàn này thâm nhập sâu trong xã hội đến từng cửa hàng nhỏ lẻ (kể cả những người bán hàng rong) hay những người tiêu thụ ở các vùng quê hẽo lánh vốn không có chi nhánh ngân hàng. Nếu Ant Group và WeChat phát triển dùng nhãn hiệu địa phương của từng quốc gia Đông Nam Á sẽ kết nối trực tiếp 655 triệu dân chúng trong vùng với thị trường sản xuất và tiêu thụ khổng lồ ở Hoa Lục, tức là thành hình một khối mậu dịch chặc chẻ hơn cả RCEP và CPTPP với xương sống là đồng NDT nhưng qua đường dây trực tiếp hoán chuyển ngoại tệ chằng chịt theo hệ thống 4G hay 5G.


Dù vậy, khả năng đồng NDT trở thành một đơn vị tiền tệ quốc tế thay thế USD rất thấp. Lý do Trung Quốc (1) kiểm soát chặc chẻ giá trị đồng NDT, (2) không muốn nợ nước ngoài, (3) không chấp nhận thâm thủng mậu dịch cho nên không đủ NDT lưu hành ra nước ngoài để trở thành trữ lượng ngoại tệ quốc tế. 


Nhưng Bắc Kinh không cần thay thế USD bằng NDT. Tiền quốc tế tuy mang đến nhiều lợi lộc (exorbitant privilege) nhưng đồng thời cũng là một gánh nặng (exorbitant burden) như đã phân tích phần trên. Trái lại Bắc Kinh chỉ cần một đơn vị tiền quốc tế nào đó - không phải là NDT - để thay thế USD cũng đủ để khiến nền kinh tế Mỹ suy yếu giúp Trung Quốc đánh bại siêu cường hàng đầu trên thế giới.


Một trường hợp có thể xãy ra là Trung Quốc, Nga và Âu Châu sẽ đề nghị một loại giỏ tiền tệ điện toán quốc tế - vừa giống Bankcor của John M. Keynes lại qua hệ thống điện toán kiểu Libra của Facebook. Ưu điểm nơi không một quốc gia nào có thể thao túng tiền tệ để tạo ưu thế cạnh tranh nên dễ được thế giới chấp nhận thay thế USD. Khuyết điểm cũng chính nơi Trung Quốc không thể thao túng tiền tệ nhằm nâng đỡ bán hàng ra ngoại quốc. Cho nên giải pháp nói trên chỉ có thể xảy đến sau khi Bắc Kinh thành công chuyển đổi trọng tâm nền kinh tế Trung Quốc từ xuất cảng sang tiêu thụ nội địa.


Kinh Tế Dễ Hiểu xin thành thật thứ lổi vì đi vào các lãnh vực phức tạp thành ra…khó hiểu.


TÓM TẮT: tiền trình quốc tế hóa USD trải qua 4 giai đoạn

  1. Năm 1944 hội nghị quốc tế Bretton Woods chọn USD làm đơn vị tiền giao thương quốc tế cột vào giá trị vàng.

  2. Năm 1971 tổng thống Richard M. Nixon thả nổi đồng USD không còn neo theo vàng.

  3. Năm 1979 Saudi Arabia nhận bán dầu bằng USD nên nước nào cần mua dầu cũng phải tồn trữ USD

  4. Năm 1998 tư bản nước ngoài tháo vốn rút USD bỏ chạy khiến đồng Bhat của Thái Lan thủng đáy. Các nước Đông Á rút kinh nghiệm từ bài học khủng hoảng tài chánh Đông Á nên đẩy mạnh xuất cảng nhằm thu về và tích lũy các khoảng dự trữ USD khổng lồ để phòng vệ.

  5. Lý do USD tiếp tục nắm giữ vị trí tiền tệ quốc tế vì trong đám mù kẻ chột làm vua: Euro không vững còn NDT bị Tàu thao túng nên nước nào cũng sợ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.