Hôm nay,  

Cọp Sách

5/24/202111:54:00(View: 3948)

copsach

Không có tiền mua. Nhẹ nhàng đi vào một tiệm sách. Dịu dàng nhìn chung quanh. Mỉm cười với ông chủ, cô tính tiền và những người canh sách, kẻo bị trộm. Tìm một cuốn sách vừa ý. Đến một góc hẻo lánh. Im lặng. Ít cử động để không gây  chú ý. Đọc.

Từ lúc trung học đệ nhị cấp, tôi đã là người cọp sách chuyên nghiệp. Khởi đầu, e ngại, hồi hộp, xấu hổ, đánh liều, những cảm giác đó tạo ra thú vị, không giống phiêu lưu mạo hiểm, mà giống anh học trò trốn ra khỏi lớp học, đi quán cà phê. Về sau, còn biết thêm, sự thú vị này khiến cho một số ông chồng đi ngoại tình.

Ngược lại, tôi say mê nội tình với sách. Theo thứ tự, cả đời tôi, thứ nhất yêu sách, thứ hai yêu đàn, thứ ba yêu rượu. Còn vợ, thuộc vào thượng hạng.

Vào những ngày cuối tuần, tiệm sách đông người người, nhất là mùa tựu trường, sự hiện diện của những cọp sách gây trở ngại lưu thông, khiến cho chủ tiệm bực bội và nhớ mặt. Kẻ cọp sách khôn ngoan nên tránh xa. Chỉ đến ngày thường, vào giờ ăn chiều, cọp cho đến tối. Thông thường các ông bà chủ lên lầu hoặc về nhà ăn cơm tối. ít khi trở lại trông tiệm. Thay vào đó, là các cô chủ gái hoặc các cậu chủ trẻ, thường xuyên lơ là hoặc thông cảm. Nhất là các cô, ngây thơ, cả tin người ham đọc sách có khả năng làm nên sự nghiệp chữ nghĩa. Thực tế, 100 người cọp, đã 50 người cọp truyện chưởng, 30 cọp chuyện ái tính, 15 cọp sách làm người, 4 cọp tạp lục, chỉ có 1 cọp văn chương, văn hóa.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách không phải dễ. Ít người mua, nên kẻ đã không mua, dù hóa thành kệ gỗ, cũng dễ nhận diện. “Cậu tìm sách gì?” “Thưa bác cho cháu đọc ké cuốn sách này.” “Chỗ làm ăn mua bán, cậu đừng đến nữa.” Có một lần tôi cảm động, có lẽ tủi thân thì đúng hơn, muốn ứa nước mắt khi nghe cô  gái đứng quày tính tiền, nói với ông chủ, “Ba, người ta nghèo. chỉ muốn đọc sách thôi mà.”

Những cô thiếu nữ

băng qua đời tôi,

như những bông hoa nở vội.

Rồi từng cánh phai.

Ròi từng cánh phai.

Trên tay tôi

không còn một ai…

(Kaoru Maruyama)

Tôi nhẹ dạ, đa tình, đền ơn nên yêu thầm cô bán sách cho đến ngày cô đi lấy chồng.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách nín thở. Không thể minh họa bằng cử chỉ hoặc âm thanh. Phải giữ thái độ tử tế, nho nhả, để có thể trở lại đọc tiếp.

Có lần, tôi đọc Alexis Zorba, Con Người Chịu Chơi, của NikosKazantzaki, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, đến đoạn Zorba ví mông phụ nữ Nga, nở nang, cứng cáp,  như mông ngựa cái và nó hí lên khi ngửi được mùi ngựa đực. Tôi ngạc nhiên. Lúc đó, biết mông phụ nữ một cách mù mờ, nhưng biết mông ngựa rất rõ, thành thử tưởng tượng lẫn chiêm bao đều hấp dẫn. Nhưng phụ nữ Việt ít ai hí, hầu hết nghe mùi đực phản phất là bỏ đi. Đôi lúc không kịp giã từ. Đọc hết đoạn Zorba không thể nói tiếng Nga, nên nhảy ra sân múa máy, nhào lộn. diễn tả câu chuyện ông muốn kể.  Thật là lý thú. Tôi cũng muốn nhảy ra múa máy nhưng kịp nhìn thấy ánh mắt của bà chủ lăm le chờ bằng cớ.

Về Sài Gòn, nhiều tiệm sách, nhiều sách. Nhất là ở nhà sách Khai Trí, tha hồ đứng đọc. Những lúc thích chí, có thể bật cười hoặc cúi mặt ngẩn ngơ suy nghĩ câu nói cao kỳ mà không sợ ai dòm ngó. Tôi cọp hết bộ Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí ở nhà sách này. Thoạt đầu, cứ tưởng, dân Sài Gòn giàu có, không quan tâm những cọp quấy rầy. Mãi về sau mới biết, ông chủ Khai Trí là người yêu văn chương. Ông dành ưu tiên cho người trẻ đọc cọp. Có lẽ, khi xưa, ông cũng cọp. (Mời đọc: Một Đời Đam Mê Sách của Phạm Phú Minh. https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2014/03/29/ong-khai-tri-mot-doi-ham-me-sach-pham-phu-minh/)

Tôi vẫn mãi ngưỡng mộ và tâm phục ông. Trước khi ông qua đời (2004), đã in một tập thơ tình chọn lọc, bao gồm thơ trong nước và ngoài nước. Ông làm một chuyến đi sang Mỹ với mục đích gặp các nhà thơ để xin phép in thơ của họ. Ông hẹn tôi ở nhà sách của anh Võ Thạnh. Lần đầu tiên, tôi được bắt tay người chủ hào phóng với cọp. Trò chuyện, Cảm ơn. Kể lại ngày xưa. Cảm ơn. Ký tên vào lá thư đồng ý cho in thơ. Rồi chia tay. Không bao giờ gặp lại. Sự yêu mến, cẩn trọng, xuề xòa mà nghiêm túc đối với văn chương của ông Khai Trí, tôi xin nghiêng mình. Cảm ơn một lần nữa.

Khoảng thập niên 1965-1975, miền Nam Việt Nam không có nhiều sách dịch. Đa số là truyện dịch. Sách dịch về lý thuyết, nghiên cứu, phê bình văn học, văn chương rất hiếm hoi. Có thể nói, thời đó, tìm ái tình dễ hơn tìm loại sách này. Bây giờ, nhớ lại thời thèm sách, cọp sách, không đủ sách để cọp, tôi cho rằng, người Việt hải ngoại thật may mắn, nhất là ở Hoa Kỳ. Muốn đọc sách nào, cũng có thể được. Một đề tài, cả ngàn sách để tìm hiểu. Không hiểu thí có sách khác chú thích, giải nghĩa cuốn sách khó. Nicolaus Copemicus viết: Biết rằng chúng ta biết những gì chúng ta biết, và hiểu rằng chúng ta không hiểu những gì chúng ta không hiểu, đó là sự hiểu biết chân chính. To know that we know what we know, and to know that we do not know what we do not know, that is true knowledge. Sự hiểu biết xây dựng từ học đường không thể sánh với sách. Học từ nhỏ đến lớn, nhiều lắm là 50 ông bà thầy. Sách có cả triệu thầy cô.

 

Bây giờ, đã hơn 20 năm đầu thế kỷ 21, sách dịch ở Việt Nam cũng không nhiều về nghiên cứu phê bình văn học thế giới. Những cậu học trò, sinh viên thèm sách, cọp sách chắc cũng hắm hở như tôi, tìm trang tạp chí hoặc cuốn sách văn chương rồi mò mẫm tra từ điển. Lầy lội, rối mù, lõm bõm, sau cùng là hiểu chưa đúng. Chúng ta không phải là kẻ mù chữ, chỉ mù cơ hội.

Bên trên, tôi có nói, tìm ái tình dễ hơn tìm sách dịch văn học hay. Đây chỉ là một cách ví von. Phụ nữ luôn luôn bí ẩn, biến hóa, có nội dung khó hiểu, có cử chỉ mang nhiều ý khác nhau, dù học suốt đới, vẫn không rành rọt. So với sách hay, phụ nữ hay gấp bội phần. Vì sách dù hay cách mấy, đọc hoài cũng nhàm. Còn phụ nữ, đọc lui đọc tới, tuy có mệt nhưng không bao giờ chán.

 

Ngu Yên
Tháng 4, 2021.  

 

Bạn đọc nào biết những ai thích cọp sách, xin chuyển giúp đến họ, 11 cuốn sách và 99 bài viết về văn học, văn chương. Không cần e ngại chủ sách, không cần phải cọp. Cứ ung dung bấm vào links. Nhẩn nha đọc những khi rảnh rỗi.
Xin chuyển link:

https://independent.academia.edu/TienNguyen228/Papers

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.