Hôm nay,  

Cọp Sách

24/05/202111:54:00(Xem: 4245)

copsach

Không có tiền mua. Nhẹ nhàng đi vào một tiệm sách. Dịu dàng nhìn chung quanh. Mỉm cười với ông chủ, cô tính tiền và những người canh sách, kẻo bị trộm. Tìm một cuốn sách vừa ý. Đến một góc hẻo lánh. Im lặng. Ít cử động để không gây  chú ý. Đọc.

Từ lúc trung học đệ nhị cấp, tôi đã là người cọp sách chuyên nghiệp. Khởi đầu, e ngại, hồi hộp, xấu hổ, đánh liều, những cảm giác đó tạo ra thú vị, không giống phiêu lưu mạo hiểm, mà giống anh học trò trốn ra khỏi lớp học, đi quán cà phê. Về sau, còn biết thêm, sự thú vị này khiến cho một số ông chồng đi ngoại tình.

Ngược lại, tôi say mê nội tình với sách. Theo thứ tự, cả đời tôi, thứ nhất yêu sách, thứ hai yêu đàn, thứ ba yêu rượu. Còn vợ, thuộc vào thượng hạng.

Vào những ngày cuối tuần, tiệm sách đông người người, nhất là mùa tựu trường, sự hiện diện của những cọp sách gây trở ngại lưu thông, khiến cho chủ tiệm bực bội và nhớ mặt. Kẻ cọp sách khôn ngoan nên tránh xa. Chỉ đến ngày thường, vào giờ ăn chiều, cọp cho đến tối. Thông thường các ông bà chủ lên lầu hoặc về nhà ăn cơm tối. ít khi trở lại trông tiệm. Thay vào đó, là các cô chủ gái hoặc các cậu chủ trẻ, thường xuyên lơ là hoặc thông cảm. Nhất là các cô, ngây thơ, cả tin người ham đọc sách có khả năng làm nên sự nghiệp chữ nghĩa. Thực tế, 100 người cọp, đã 50 người cọp truyện chưởng, 30 cọp chuyện ái tính, 15 cọp sách làm người, 4 cọp tạp lục, chỉ có 1 cọp văn chương, văn hóa.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách không phải dễ. Ít người mua, nên kẻ đã không mua, dù hóa thành kệ gỗ, cũng dễ nhận diện. “Cậu tìm sách gì?” “Thưa bác cho cháu đọc ké cuốn sách này.” “Chỗ làm ăn mua bán, cậu đừng đến nữa.” Có một lần tôi cảm động, có lẽ tủi thân thì đúng hơn, muốn ứa nước mắt khi nghe cô  gái đứng quày tính tiền, nói với ông chủ, “Ba, người ta nghèo. chỉ muốn đọc sách thôi mà.”

Những cô thiếu nữ

băng qua đời tôi,

như những bông hoa nở vội.

Rồi từng cánh phai.

Ròi từng cánh phai.

Trên tay tôi

không còn một ai…

(Kaoru Maruyama)

Tôi nhẹ dạ, đa tình, đền ơn nên yêu thầm cô bán sách cho đến ngày cô đi lấy chồng.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách nín thở. Không thể minh họa bằng cử chỉ hoặc âm thanh. Phải giữ thái độ tử tế, nho nhả, để có thể trở lại đọc tiếp.

Có lần, tôi đọc Alexis Zorba, Con Người Chịu Chơi, của NikosKazantzaki, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, đến đoạn Zorba ví mông phụ nữ Nga, nở nang, cứng cáp,  như mông ngựa cái và nó hí lên khi ngửi được mùi ngựa đực. Tôi ngạc nhiên. Lúc đó, biết mông phụ nữ một cách mù mờ, nhưng biết mông ngựa rất rõ, thành thử tưởng tượng lẫn chiêm bao đều hấp dẫn. Nhưng phụ nữ Việt ít ai hí, hầu hết nghe mùi đực phản phất là bỏ đi. Đôi lúc không kịp giã từ. Đọc hết đoạn Zorba không thể nói tiếng Nga, nên nhảy ra sân múa máy, nhào lộn. diễn tả câu chuyện ông muốn kể.  Thật là lý thú. Tôi cũng muốn nhảy ra múa máy nhưng kịp nhìn thấy ánh mắt của bà chủ lăm le chờ bằng cớ.

Về Sài Gòn, nhiều tiệm sách, nhiều sách. Nhất là ở nhà sách Khai Trí, tha hồ đứng đọc. Những lúc thích chí, có thể bật cười hoặc cúi mặt ngẩn ngơ suy nghĩ câu nói cao kỳ mà không sợ ai dòm ngó. Tôi cọp hết bộ Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí ở nhà sách này. Thoạt đầu, cứ tưởng, dân Sài Gòn giàu có, không quan tâm những cọp quấy rầy. Mãi về sau mới biết, ông chủ Khai Trí là người yêu văn chương. Ông dành ưu tiên cho người trẻ đọc cọp. Có lẽ, khi xưa, ông cũng cọp. (Mời đọc: Một Đời Đam Mê Sách của Phạm Phú Minh. https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2014/03/29/ong-khai-tri-mot-doi-ham-me-sach-pham-phu-minh/)

Tôi vẫn mãi ngưỡng mộ và tâm phục ông. Trước khi ông qua đời (2004), đã in một tập thơ tình chọn lọc, bao gồm thơ trong nước và ngoài nước. Ông làm một chuyến đi sang Mỹ với mục đích gặp các nhà thơ để xin phép in thơ của họ. Ông hẹn tôi ở nhà sách của anh Võ Thạnh. Lần đầu tiên, tôi được bắt tay người chủ hào phóng với cọp. Trò chuyện, Cảm ơn. Kể lại ngày xưa. Cảm ơn. Ký tên vào lá thư đồng ý cho in thơ. Rồi chia tay. Không bao giờ gặp lại. Sự yêu mến, cẩn trọng, xuề xòa mà nghiêm túc đối với văn chương của ông Khai Trí, tôi xin nghiêng mình. Cảm ơn một lần nữa.

Khoảng thập niên 1965-1975, miền Nam Việt Nam không có nhiều sách dịch. Đa số là truyện dịch. Sách dịch về lý thuyết, nghiên cứu, phê bình văn học, văn chương rất hiếm hoi. Có thể nói, thời đó, tìm ái tình dễ hơn tìm loại sách này. Bây giờ, nhớ lại thời thèm sách, cọp sách, không đủ sách để cọp, tôi cho rằng, người Việt hải ngoại thật may mắn, nhất là ở Hoa Kỳ. Muốn đọc sách nào, cũng có thể được. Một đề tài, cả ngàn sách để tìm hiểu. Không hiểu thí có sách khác chú thích, giải nghĩa cuốn sách khó. Nicolaus Copemicus viết: Biết rằng chúng ta biết những gì chúng ta biết, và hiểu rằng chúng ta không hiểu những gì chúng ta không hiểu, đó là sự hiểu biết chân chính. To know that we know what we know, and to know that we do not know what we do not know, that is true knowledge. Sự hiểu biết xây dựng từ học đường không thể sánh với sách. Học từ nhỏ đến lớn, nhiều lắm là 50 ông bà thầy. Sách có cả triệu thầy cô.

 

Bây giờ, đã hơn 20 năm đầu thế kỷ 21, sách dịch ở Việt Nam cũng không nhiều về nghiên cứu phê bình văn học thế giới. Những cậu học trò, sinh viên thèm sách, cọp sách chắc cũng hắm hở như tôi, tìm trang tạp chí hoặc cuốn sách văn chương rồi mò mẫm tra từ điển. Lầy lội, rối mù, lõm bõm, sau cùng là hiểu chưa đúng. Chúng ta không phải là kẻ mù chữ, chỉ mù cơ hội.

Bên trên, tôi có nói, tìm ái tình dễ hơn tìm sách dịch văn học hay. Đây chỉ là một cách ví von. Phụ nữ luôn luôn bí ẩn, biến hóa, có nội dung khó hiểu, có cử chỉ mang nhiều ý khác nhau, dù học suốt đới, vẫn không rành rọt. So với sách hay, phụ nữ hay gấp bội phần. Vì sách dù hay cách mấy, đọc hoài cũng nhàm. Còn phụ nữ, đọc lui đọc tới, tuy có mệt nhưng không bao giờ chán.

 

Ngu Yên
Tháng 4, 2021.  

 

Bạn đọc nào biết những ai thích cọp sách, xin chuyển giúp đến họ, 11 cuốn sách và 99 bài viết về văn học, văn chương. Không cần e ngại chủ sách, không cần phải cọp. Cứ ung dung bấm vào links. Nhẩn nha đọc những khi rảnh rỗi.
Xin chuyển link:

https://independent.academia.edu/TienNguyen228/Papers

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.