Hôm nay,  

Gió Đã Xoay Chiều: Chính Sách Ngoại Giao Mới Của Đức

12/7/202115:07:00(View: 4041)



Bối cảnh

Kết qủa của cuộc bầu cử vào ngày 26/9/2011 là ba đảng Dân chủ Xã hội (SPD), Xanh (Grüne) và Dân chủ Tự do (FDP) chiếm được đa số tại Quốc hội. 

Để nắm quyền cai trị trong bốn năm tới, các đảng này phải thoả hiệp nhau để tìm ra một đường lối chung định hình cho một chính sách liên minh mới mà  báo chí gọi tắt theo một biểu tượng là “đèn hiệu giao thông”, bao gồm ba màu đỏ, (đảng SPD) xanh lá cây (đảng Xanh) và vàng (đảng FDP). 

Nói chung, đảng Xanh quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, đảng FDP phát huy tự do cho nền kinh tế thị trường trong khi đảng SPD ưu tiên  bảo vệ công bình xã hội, quyền lợi công nhân và tôn trọng nhân quyền. 

Ngày 21/10, 22 nhóm chuyên gia của ba đảng bắt đầu các cuộc họp chuyên đề và đúc kết các dị biệt trong một văn bản chung quyết để thỏa thuận việc cầm quyền được gọi là Koalitionsvertrag (Hợp đồng Liên Minh), được mệnh danh là "Mehr Fortschritt wagen“ (Dám tạo ra nhiều tiến bộ). Kết quả này được trình bày trước công luận và báo chí vào ngày 26/11. 

Nội dung của Hợp đồng Liên Minh  là đem lại "một sự đổi mới toàn diện cho đất nước" trong "một sự khởi hành mới". Văn bản đưa ra một số "xác định sơ bộ" để giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, số hóa, đảm bảo thịnh vượng và gắn kết xã hội. 

Với 177 trang, ba đảng đề cập đến 9 chuyên đề. Các vấn đề “Đối ngoại, An ninh, Quốc phòng, Phát triển, Nhân quyền“ chỉ là một phần trong chuyên đề VII: “Trách nhiệm của Đức đối với châu Âu và thế giới.“

Tóm lược  

Nhìn chung, chính sách ngoại giao của Đức dựa trên sự liên tục và  nằm trong khuôn khổ của cơ quan Liên Âu. Với tư cách là thành viên quan trọng nhất, Đức có khả năng hành động với nhiều chủ quyền hơn. 

Sự cạnh tranh hệ thống với các  nước độc tài và đoàn kết chiến lược với các đối tác dân chủ cũng được đề cập. 

Trong bối cảnh này, chính sách đối ngoại của Đức  "hành động từ một nguồn duy nhất", bao gồm cả việc đệ trình một chiến lược an ninh quốc gia liên ngành, đó là một mô hình chiến lược mới. 

Tuy nhiên, việc thành lập một Hội đồng An ninh Quốc gia như đảng FDP đã dự kiến trong chương trình vận động tranh cử, không được đề ra trong kế hoạch.

Trong các vấn đề liên minh xuyên Đại Tây Dương, Hoa Kỳ sẽ là "trụ cột trung tâm" và "NATO cũng là một phần không thể thiếu của nền an ninh Đức." 

Vấn đề có thể tiên đoán là việc can thiệp tại Afghanistan sẽ được giải quyết tại Quốc hội. Việc mua các máy bay không người lái có vũ trang để bảo vệ quân đội mà SPD luôn chống lại trong chính phủ liên minh CDU-SPD, nay cũng đã được quyết định. Đảng FDP đã có ý đồng thuận và đảng Xanh không loại trừ việc trang bị vũ khí.

Việc đóng góp tài chánh quốc phòng trong khối NATO như thỏa thuận, theo định mức hai phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội, không được Đức đề cập trực tiếp, nhưng dự kiến đóng ba phần trăm cho "đầu tư trong hành động quốc tế" và do đó cũng được hiểu là hoàn thành "nghĩa vụ tham gia  NATO". Đó là một phạm vi chắc chắn sẽ còn gây tranh cải khi thảo luận cho việc chuẩn chi kinh phí  trong tương lai.

Vấn đề mà đảng SPD có những phản ứng mạnh mẽ trước đây là có nên tham gia về vũ khí hạt nhân không, đã được giải quyết: Đức sẽ mua sắm một loại máy bay chiến đấu sau đời Tornado, và Đức sẽ tiếp tục tham gia "khi nào mà loại vũ khí hạt nhân còn đóng một vai trò trong khái niệm chiến lược của NATO”.

Trong văn bản không đề cập đến  việc Nga cung cấp năng lượng cho Đức qua ống dẫn dầu trên biển Đông, Baltic Nord Stream 2, một chuyên đề bị đảng Xanh bác bỏ triệt để và đảng FDP còn hoài nghi, trong khi được đảng SPD ủng hộ hơn. 

Đối với Nga. Đức có nhiều chỉ trích và mong muốn hợp tác qua một cuộc đối thoại mang tính xây dựng "về các vấn đề của tương lai" và "trong việc vượt qua các thách thức toàn cầu". 

Vấn đề kêu gọi Nga cần phải "chấm dứt ngay lập tức các nỗ lực gây mất ổn định chống lại Ukraine, bạo lực ở miền đông Ukraine và sáp nhập Crimea bất hợp pháp" không được văn bản đề cập. Việc trì hoãn này có nghĩa là để dành cho công việc cụ thể của chính phủ, mà nó có thể sẽ gây ra các cuộc xung đột.

Bang giao Đức- Trung Quốc

(trích dịch từ nguyên tác Đức ngữ trong Koalitionsvertrag trang 157-158)

Đức muốn và phải định hình mối quan hệ với Trung Quốc trong những tầm vóc đối tác, cạnh tranh và mang tính đối thủ qua hệ thống. 

Trên cơ sở Luật Nhân quyền và Luật pháp Quốc tế hiện hành, Đức tìm kiếm sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào có thể. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng tăng với Trung Quốc, Đức muốn có các quy tắc công bằng. 

Để có thể thực hiện các giá trị và lợi ích của mình trong cuộc cạnh tranh mang tính hệ thống với Trung Quốc, Đức cần có một chiến lược toàn diện về Trung Quốc trong khuôn khổ chính sách chung Liên Âu-Trung Quốc. Đức muốn tiếp tục các cuộc tham vấn liên chính phủ và làm cho châu Âu mạnh hơn.

Đức cố gắng phối hợp chặt chẽ trong khuôn khổ Xuyên Đại Tây Dương về một chính sách đốî với Trung Quốc và tìm kiếm sự hợp tác với các nước cùng quan điểm để giảm bớt sự phụ thuộc chiến lược. 

Kỳ vọng của Đức về chính sách đối ngoại của Trung Quốc là Trung Quốc sẽ đóng một vai trò có trách nhiệm đối với hòa bình và ổn định với các lân bang. 

Đức cam kết rằng các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông nên được giải quyết trên cơ sở Luật Biển quốc tế. Sự thay đổi hiện trạng ở eo biển Đài Loan chỉ có thể diễn ra theo một cách hòa bình và tương thuận. 

Trong khuôn khổ chính sách một Trung Quốc của Liên Âu, Đức ủng hộ sự tham gia trong các chuyên đề có liên quan Đài Loan dân chủ trong các tổ chức quốc tế. 



Đức đặt vấn đề rõ ràng về các vi phạm nhân quyền của Trung Quốc, đặc biệt là ở Tân Cương. Giá trị của nguyên tắc “một quốc gia - hai hệ thống” ở Hồng Kông phải được tái khẳng định.

Bang giao Đức-Ấn Độ-Thái Bình Dương

Dựa trên các chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Đức và Liên Âu, Đức ủng hộ một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở dựa trên các chuẩn mực toàn cầu và Luật Quốc tế. 

Đức muốn đạt được tiến bộ trong sự hợp tác, đặc biệt trong các lĩnh vực tăng cường chủ thuyết đa phương, tinh thần trọng pháp và dân chủ, bảo vệ khí hậu, thương mại và số hóa. 

Đức muốn cùng thúc đẩy đối thoại sâu rộng về hòa bình và an ninh ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đức muốn thúc đẩy quan hệ đối tác EU-ASEAN. 

Đức muốn nâng cấp cho Hội nghị Doanh nghiệp Đức-Châu Á-Thái Bình Dương về mặt chính trị.

Đức muốn mở rộng các mối quan hệ, bao gồm cả ở cấp quốc hội, với các đối tác có giá trị quan trọng như Úc, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc. 

Đức muốn bắt đầu có các cuộc tham vấn thường xuyên cấp chính phủ với Nhật Bản. 

Đức đặc biệt quan tâm đến việc làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ bằng cách thực hiện chương trình nghị sự cho quan hệ đối tác Ấn-Đức và quan hệ đối tác kết nối Liên Âu-Ấn Độ. 

Đức hỗ trợ cho những người đang và sẽ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng cao. 

Đức muốn tích cực thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng theo tiêu chuẩn quốc tế có chất lượng cao. Sáng kiến Cổng toàn cầu của Liên Âu là một công cụ quan trọng trong vấn đề này,(hết trích dịch).

Bang giao Đức-Việt

Bang giao Đức-Việt không được đề cập trong lập trường của chính phủ mới, điều đó không có nghĩa là không quan trọng. Thực tế ngược lại, có nhiều chủ đề liên quan gián tiếp đến Việt Nam. 

Theo các tài liệu mới, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Đức tại Đông Nam Á, kim ngạch thương mại hai nước đã tăng gấp đôi lên mức trên 10 tỷ USD, thương mại song phương tính đến tháng 8/2021 đạt hơn 7,2 tỷ USD, tăng 11,3 % so với cùng kỳ năm 2020. 

Có hơn 350 doanh nghiệp Đức đang đầu tư tại Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã đầu tư tại Đức 30 dự án với tổng số vốn 120 triệu USD.

Trong 30 năm qua, Đức đã cung cấp trên 2 tỷ USD cho Việt Nam trong các chương trình viện trợ phát triển kinh tế. 

Hiện nay, Đức xác định Việt Nam là Đối tác trong  Chiến lược hợp tác phát triển 2030 để Việt Nam phát triển bền vững, trước mắt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp 4.0. 

Thành quả này là còn trong thời của bà Merkel. Chính phủ tương lai của Đức cũng sẽ tiếp tục khai thác và sẽ tạo ra một xung lực mới cho việc mở rộng hợp tác trong nhiều mặt giữa hai nước.

Việt Nam có tận dụng ưu thế này  không, còn phải cần thời gian theo dõi. Nhu cầu trước mắt là sau vụ Trịnh Xuân Thanh, Việt Nam nên thể hiện tinh thần trọng pháp và lễ độ ngoại giao trong thời đại văn minh.

Đức phê phán công khai và cứng rắn đường lối bành trướng của Bắc Kinh, đặc biệt là tranh chấp tại biển Đông và biển Hoa Đông. 

Đức báo động là bắt đầu quan tâm chặt chẻ hơn đến các vấn đề vi phạm nhân quyền tại Tân Cương, tương lai dân chủ cho Hồng Kông  và bảo vệ cho lãnh thổ của Đài Loan. Chủ trương này được hiểu là giờ đây gió đã xoay chiều và thời kỳ trọng thương trong kỷ nguyên Merkel đã kết thúc.

Giải thích sự thay đổi đường lối này một cách gián tiếp cũng có nghĩa là Đức sẽ ủng hộ cho Việt Nam theo đuổi một giải pháp hiếu hoà. Việt Nam có đủ can đảm để tận dụng các ưu thế này hay tiếp tục kiên trì trong im lặng với Trung Quốc, đó là vấn đề ý thức phản tỉnh về nội lực của Việt Nam.

Trong chiều hướng mới này, Đức cũng sẽ quan tâm đến các vấn đề tôn trọng nhân quyền, phát huy dân chủ và vẹn toàn lãnh thổ cho Việt Nam,  có nghĩa là, các phong trào xã hội dân sự trong và ngoài nước có một cơ hội mới để hợp tác với Đức. Các phương tiện truyền thông Đức sẽ bắt đầu mở rộng hơn so với thời của bà Merkel. Gần đây, bà Merkel đã thú nhận là ngây thơ và dè dặt với Trung Quốc, nhưng không nói rõ lý do tại sao bà lại nhẹ tay cho Việt Nam trong vụ Trịnh Xuân Thanh.

Vấn đề còn lại cho người Việt còn quan tâm đến công cuộc đấu tranh cho tương lai của Việt Nam là có tận dụng được lợi thế mới này tại Đức để mở rộng ngoại vận hay không, triển vọng này còn tùy vào việc phát huy năng lực nội tại và sự hồi phục của tình hình chung sau thảm hoạ COVID-19.  

Triển vọng

Chính phủ Đức mới lên ý thức rõ là phải cải cách toàn diện, nhưng không nên hy vọng có thể thực hiện được như trong chương trình đề ra. Có quá nhiều lý do để phải dè dặt cho tương lai. 

COVID-19 đang làm chết hơn 100.000 người và dịch bịnh còn lan rộng không biết đến chừng nào. Kinh tế không thể hồi phục nhanh vì kỷ thuật số của Đức tụt hậu so với trình độ phát triển chung của các nước công nghiệp khác. Thiên tai, bảo lụt và dịch bịnh làm cho chính quyền chỉ lo tung tiền cứu trợ khắp nơi, nợ công càng chồng chất cao hơn. Hậu qủa trực tiếp của khiếm hụt ngân sách làm cho lạm phát tăng và đời sống khó khăn. Làn sóng di dân ồ ạt là lý do chính cho phong trào bài ngoại gia tăng.

Dân chúng chống đối đủ kiếu làm phân hoá xã hội trầm trọng. Trở lực chính cho hồi phục là thị trường nhân dụng. Mức độ lão hoá dân số nhanh nên tình trạng thiếu nhân công khó giải quyết mà giới chuyên gia về tin học và nhân viên điều dưỡng y tế là khan hiếm. 

Tất cả các yếu tố này làm cho tình hình chung trong xã hội Đức không có gì là lạc quan.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.