Hôm nay,  

Bước mãi đến thiên thu

2/13/202220:29:00(View: 3503)

 Valentine's Day -- Truyện

 

longwalk



Hai người lớn lên cạnh nhà nhau, tại rìa thành phố, nơi tiếp giáp cánh đồng, khu rừng và vườn cây trái, trong tầm nhìn cái tháp chuông xinh xắn của ngôi trường cho người mù.

 

Bây giờ họ đã hai mươi tuổi và dễ thường đến gần năm trời họ không gặp mặt nhau. Giữa hai người bao giờ cũng là sự ấm áp vui tươi và thư thái, nhưng chưa bao giờ họ nói đến tình yêu.

 

Tên anh là Newt. Tên cô Catharine. Lúc xế trưa, Newt đến gõ cửa nhà Catharine.

 

Catharine ra mở cửa. Cô cầm trên tay cuốn tạp chí khổ lớn, màu sắc bóng láng, cô đang đọc. Cuốn tạp chí dành trọn số đăng bài và hình ảnh về cô dâu. “Newt!” Cô kêu lên, ngạc nhiên khi thấy anh.

“Em ra ngoài đi dạo được không?” Anh hỏi cô. Anh là người có tính hay thẹn, ngay cả với Catharine cũng thế. Anh che đậy tính thẹn của mình bằng cách nói trống không, như thể những điều thực sự liên quan đến anh đều nằm ngoài xa – như thể anh là một điệp viên tạm nghỉ chân trong một đặc vụ giữa những điểm đến xa xôi, đẹp đẽ nhưng hung hiểm. Xưa nay, đây vẫn là cách nói năng của Newt, ngay cả khi anh phải đương đầu với sự việc trong tuyệt vọng.

 

“Đi dạo à?” Catharine hỏi lại anh.

 

“Một chân trước, một chân sau,” anh trả lời cô, “giẵm lên lá cây, bước qua cầu...”

 

“Em không biết anh mới về.”

 

“Anh vừa về đến.”

 

“Vẫn còn trong quân đội à – em thấy rồi.”

 

“Còn bảy tháng nữa.” Anh bảo cô. Anh là binh Nhất trong binh chủng Pháo binh. Bộ quân phục trên người anh nhầu nhĩ. Đôi giày bụi bám đầy. Anh cần cạo râu. Anh đưa tay ra cầm lấy cuốn tạp chí. “Xem nào, cuốn sách đẹp nhỉ.”

 

Cô đưa cuốn báo cho anh. “Newt, em sắp lên xe hoa.” Cô bảo anh.

 

“Anh biết, mình ra đi dạo một chút đi.”

 

“Newt, em bận lắm,” cô bảo anh. “Tuần tới là đám cưới.”

“Nếu ra đi dạo, em sẽ tươi hồng. Em sẽ là một cô dâu màu hồng.” Anh lật lật cuốn báo. “Một cô dâu màu hồng như cô này… cô này… cô này.” Anh nói, tay chỉ vào những cô dâu màu hồng.

 

Khuôn mặt Catharine bỗng ửng hồng, cô đang nghĩ đến những cô dâu màu hồng.

 

“Đấy là quà cưới của anh cho Henry Steward Chasens,” Newt bảo cô. “Đưa em đi dạo, anh sẽ tặng anh ta một cô dâu màu hồng.”

 

“Anh biết tên anh ấy?”

 

“Mẹ viết thư. Hôm đi Pittsburg thì phải?”

 

“Vâng,” cô bảo anh. “Anh sẽ thích anh ấy.”

 

“Có thể.”

 

“Newt, anh… anh đi dự đám cưới em được chứ?” Cô hỏi anh.

 

“Chắc là không được.”

 

“Anh hết hạn nghỉ phép rồi sao?”

 

“Nghỉ phép?” Anh nói, mắt vẫn không rời trang quảng cáo những đồ dùng bằng bạc trong cuốn tạp chí. “Anh đâu được nghỉ phép.”

 

“Ô hay!”

 

“Anh trốn trại về.”

 

“Ô, Newt! Thật thế không?” Cô kêu lên.

“Thật đấy,” anh nói, mắt vẫn nhìn vào cuốn tạp chí.

 

“Tại sao vậy, Newt?”

 

“Anh cần biết em thích loại đồ bạc nào.” Anh đọc tên những mẫu mã dao muỗng nĩa làm bằng bạc trong cuốn tạp chí. “Albemarle? Heather? Legend? Rambler Rose?” Anh ngước mặt lên, mỉm cười. “Anh định tặng vợ chồng em một cái thìa bạc.”

 

“Newt, Newt, anh nói thật đi.” Cô bảo anh.

 

“Anh muốn ra đi dạo.”

 

Cô đan hai tay vào nhau trong tâm trạng lo âu của cô em gái. “Newt, anh nói đùa với em về chuyện anh trốn trại, phải không?”

 

Newt giả giọng khe khẽ làm tiếng còi hụ xe cảnh sát, anh nhướng đôi lông mày.

 

“Ở đâu? Từ đâu ra?”

 

“Fort Bragg.”

 

“North Carolina?”

 

“Đúng đấy, gần Fayetteville, chỗ Scarlett O’Hara đi học.”

 

“Newt, anh về bằng cách nào?” Cô hỏi anh.

 

Anh đưa ngón tay cái ra ngoắc ngoắc, ngầm bảo đi quá giang xe về.

 

“Mất hai hôm.” Anh bảo cô.

 

“Mẹ anh biết anh về chưa?”

 

“Anh về không phải để thăm mẹ.”

 

“Chứ để thăm ai?”

 

“Em.”

 

“Tại sao là em?”

 

“Bởi vì anh yêu em. Bây giờ mình đi dạo được chưa? Một chân trước, một chân sau, giẵm lên lá cây, bước qua cầu...”

 

Bây giờ hai người đang đi dạo, bên trong khu rừng trải thảm lá nâu khô.

 

Catharine giận lắm, người cô run lên, nước mắt chỉ chực trào ra. “Newt! Anh thật là điên, điên quá sức mất thôi.” Cô bảo anh.

 

“Điên như thế nào?” Newt hỏi lại.

 

“Chỉ có điên mới đúng ngay vào lúc này bảo yêu em. Trước đây anh có nói như thế bao giờ.” Cô bỗng dừng bước.

 

“Đi nữa đi em.” Anh bảo cô.

 

“Không! Em không đi nữa. Lẽ ra em chẳng nên đi ra ngoài với anh như thế này.”

 

“Em đi rồi đấy.”

 

“Để kéo anh ra khỏi nhà chứ có ai vô tình bước vào nghe anh nói chuyện với em như thế trước ngày đám cưới một tuần thì…”

 

“Họ sẽ nghĩ gì?” Anh hỏi cô.

 

“Họ sẽ nghĩ anh là người điên.”

 

“Tại sao?”

 

Catharine hít vào một hơi thở sâu, đoạn cô đọc một bài diễn văn. “Hãy cứ nói là em vô cùng vinh dự với hành động điên khùng này của anh. Em không thể nào tin nổi anh thật sự trốn trại về đây, nhưng có thể anh làm thế thật. Em cũng không tin nổi anh thật sự yêu em, nhưng anh có thể yêu em thật. Nhưng…”

 

“Anh yêu em thật,” Newt bảo cô.

 

“Ừ, em vô cùng vinh dự,” Catharine bảo anh, “và em rất quý mến anh như người bạn. Newt, em quý anh lắm... nhưng trễ quá rồi.” Cô lùi lại một bước ra xa anh. “Thậm chí anh chưa bao giờ hôn em,” cô bảo anh, cô đưa hai tay lên như tự vệ. “Em không có ý nói bây giờ anh nên hôn em, nhưng mọi chuyện xảy ra bất ngờ quá và em hoàn toàn không biết phải ứng phó như thế nào.”

 

“Đi thêm đoạn nữa,” Anh bảo cô. “Cứ việc thong thả.”

 

Hai người lại tiếp tục đi.

 

“Anh chờ đợi phản ứng gì từ em?” Cô hỏi anh.

 

“Làm sao anh biết anh chờ đợi điều gì?” Anh trả lời cô. “Anh chưa làm như thế này bao giờ.”

 

“Anh nghĩ là em sẽ chạy lại ôm chầm lấy anh ư?”

 

“Có thể.”

 

“Rất tiếc em đã làm anh thất vọng.”

 

“Anh không thất vọng. Anh không mong chuyện đó. Đi dạo thế này là tốt đẹp lắm rồi.”

 

Catharine lại dừng bước. “Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp không?” Cô nói.

 

“Không.”

 

“Chúng mình bắt tay nhau. Bắt tay xong chia tay như bạn. Đó là chuyện sẽ xảy ra kế tiếp.”

 

Newt gật đầu. “Được rồi.” Đoạn anh nói tiếp, “Thỉnh thoảng nhớ đến anh. Nhớ tình của anh cho em.”

 

Không tự chủ được nữa, Catharine bật lên khóc. Cô quay lưng lại Newt, hướng về phía cây rừng đan nhau chạy dài sâu hút đến vô tận.

 

“Thế này nghĩa là gì?” Newt hỏi cô.

 

“Tức chết được chứ còn gì nữa!” Catharine trả lời anh, hai tay cô nắm chặt. “Anh không có quyền gì… ”

 

“Anh sẽ phải tìm ra thôi,” anh bảo cô.

 

“Nếu em yêu anh thì em đã để lộ ra cho anh thấy từ trước đây rồi.”

 

“Thế à?”

 

“Chứ còn gì nữa,” cô bảo anh. Cô quay lại đối diện anh, nhìn lên anh, mặt cô đỏ gay. “Anh phải biết.”

 

“Cách nào anh biết?”

 

“Anh phải nhìn thấy. Đàn bà không khéo che giấu tình cảm của mình.”

 

Newt nhìn sát mặt cô. Cô bỗng hoảng vía bởi cô nhận ra điều cô vừa nói là sự thật, đàn bà khó có thể che giấu được tình yêu.

 

Giờ đây Newt nhìn thấy tình yêu.

 

Anh làm điều anh phải làm. Anh hôn cô.

 

“Anh thật là quá sức!” Cô bảo anh sau khi anh buông cô ra.

 

“Anh quá sức gì?”

 

“Anh không nên làm thế.”

 

“Em không thích à?”

 

“Anh muốn gì? Tình yêu say đắm, cuồng nhiệt chăng?”

 

“Anh bảo em rồi, anh không bao giờ biết chuyện gì xảy ra kế tiếp.”

 

“Mình chia tay.” Cô bảo anh.

 

Anh khẽ nhíu mày. “Được rồi.” Anh bảo cô.

 

Cô lại đọc bài diễn văn khác. “Rất tiếc chúng mình hôn nhau. Nó ngọt ngào lắm. Nên hôn nhau chứ, chúng mình thân thiết nhau quá mà. Newt, em sẽ luôn luôn nhớ đến anh. Thôi, chúc anh may mắn.”

 

“Em cũng thế.” Newt bảo cô.

 

“Newt, cám ơn anh.”

 

“Ba mươi ngày.”

 

“Gì cơ?”

 

“Ba mươi ngày bị nhốt,” anh bảo cô, “đó là cái giá anh phải trả cho một nụ hôn.”

 

“Em... em rất tiếc, nhưng em có bảo anh trốn trại bao giờ đâu.”

 

“Anh biết.”

 

“Nhưng anh cũng không xứng đáng nhận lãnh huy chương anh hùng cho việc làm ngu ngốc đó của anh.” Cô bảo anh.

 

“Làm anh hùng thì thích thật. Henry Steward Chasens có là anh hùng không?”

 

“Có thể lắm chứ, nếu anh ấy có cơ hội,” Catharine bảo anh. Cô ngượng ngùng nhận ra hai người lại tiếp tục cất bước. Cuộc chia tay bị bỏ quên.

 

“Em yêu anh ta thật không?” Newt hỏi cô.

 

“Chắc chắn em yêu anh ấy chứ.” Giọng nói cô quả quyết. “Nếu không yêu thì em đâu chịu lấy anh ấy.”

 

“Cái gì tốt đẹp nơi con người anh ta?” Newt lại hỏi.

 

“Em nói thật này!” Cô kêu lên, lại dừng bước. “Anh có biết anh đang tọc mạch lắm không? Có thật nhiều, nhiều, nhiều điều tốt đẹp về Henry! Vâng, và có lẽ cũng có thật nhiều, nhiều, nhiều điều xấu nữa. Nhưng nó chẳng liên quan gì đến anh. Em yêu Henry, và em chẳng cần phải cãi cọ với anh về đức hạnh của anh ấy làm gì.”

 

“Xin lỗi em.” Newt bảo cô.

 

“Em nói thật đấy!”

 

Newt lại hôn cô. Anh hôn cô lần nữa bởi cô muốn như thế.

 

Bây giờ hai người đang đứng trong một vườn cây rộng.

 

“Newt! Mình đi xa nhà quá rồi.” Catharine bảo anh.

 

“Một chân trước, một chân sau, giẵm lên lá cây, bước qua cầu…”

 

“Một bước, hai bước nối tiếp nhau, cứ thế đi mãi.” Cô bảo anh.

 

Tiếng chuông đổ vọng lại từ tháp chuông ngôi trường cho người mù gần đó.

 

“Trường học cho người mù.” Newt nói.

 

“Trường học cho người mù.” Catharine đáp lời. Cô lắc đầu trong nỗi kinh ngạc mê muội. “Em phải về nhà ngay.”

 

“Mình chào nhau,” Newt bảo cô.

 

“Hình như mỗi lần làm thế, em lại bị hôn.”

 

Newt ngồi xuống thảm cỏ mới cắt xén dưới gốc một cây táo.

 

“Ngồi xuống đây đi em,” anh bảo Catharine.

 

“Không.”

 

“Anh sẽ không chạm vào em đâu.” Anh bảo cô.

 

“Em không tin anh.”

 

Cô ngồi xuống dưới gốc cây táo khác cách xa chỗ anh sáu bảy thước. Hai mắt cô nhắm lại.

 

“Nhắm mắt mơ về Henry Steward Chasens đi.” Newt bảo cô.

 

“Gì cơ?” Cô hỏi lại anh.

 

“Mơ về người chồng tương lai tuyệt diệu đi.”

 

“Được rồi, anh không cần nhắc em.” Cô nhắm hai mắt chặt hơn, thoáng thấy hình ảnh người chồng tương lai của mình hiện ra.

 

Newt ngáp dài.

 

Có tiếng ong vo ve trên tàn cây, Catharine xuýt trôi vào giấc ngủ. Lúc mở mắt cô thấy Newt đã ngủ say tự lúc nào không biết.

 

Anh bắt đầu ngáy khe khẽ.

 

Catharine để Newt ngủ cả giờ đồng hồ, và trong lúc anh ngủ cô thấy lòng mình ngập tràn nỗi niềm thương yêu.

 

Bóng những cây táo càng lúc càng ngả về hướng Đông. Tiếng chuông từ ngôi trường cho người mù lại đổ.

 

“Chíc-cà-đi-đi-đi,” tiếng hót của con chim chickadee nghe lảnh lót đâu đây.

 

Từ khoảng cách xa xa vọng lại tiếng động cơ một chiếc xe đang nổ máy, rồ lên rồi lại tắt, mấy lần và cuối cùng im bặt.

 

Catharine bước ra khỏi gốc cây táo, cô đến quỳ xuống bên cạnh Newt.

 

“Newt?” Cô gọi anh.

 

“Hử?” Anh mở choàng mắt.

 

“Trễ rồi.” Cô bảo anh.

 

 “Catharine.”

 

“Newt.”

 

“Anh yêu em.” Anh bảo cô.

 

“Em biết.”

 

“Trễ quá rồi.” Anh bảo cô.

 

“Trễ quá rồi.” Cô lặp lại.

 

Anh đứng lên, vươn vai. “Thật là một buổi đi dạo thích thú.” Anh bảo cô.

 

“Em cũng thấy thế.”

 

“Mình chia tay nơi đây?” Anh hỏi cô.

 

“Anh định đi đâu?” Cô hỏi anh.

 

“Quá giang xe vào thị trấn rồi ra trình diện.”

 

“Chúc anh may mắn.”

 

“Em cũng thế.” Anh bảo cô. “Catharine, lấy anh đi.”

 

“Không.” Cô trả lời anh.

 

Miệng anh nở nụ cười, anh nhìn thật sâu vào mặt cô một lúc lâu, đoạn quay lưng bước nhanh.

 

Catharine nhìn theo bóng anh nhỏ dần dọc theo đường viễn cảnh của bóng chiều và hàng cây, cô biết nếu anh dừng chân và quay lại ngay lúc này, nếu anh gọi tên cô thì cô sẽ chạy lại anh mất thôi. Cô không có chọn lựa nào khác.

 

Newt dừng chân lại thật. Anh quay người lại thật. Anh gọi tên cô thật.

 

“Catharine,” anh gọi cô.

 

Cô chạy lại, ôm chầm lấy anh, không thốt được lời nào.

 

– Kurt Vonnegut, Jr.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.