Hôm nay,  

Áp dụng kế hoạch Marshall cho chương trình tái thiết hậu chiến Ukraine?

18/06/202217:42:00(Xem: 3137)

Bình luận chiến sự Ukraine

z 1 13 war ukrainefhsh

 

Vấn đề

 

Trong khi cuộc chiến xâm lăng của Nga tại Ukraine còn đang diễn ra cực kỳ ác liệt, thì chính giới quốc tế đã bắt đầu thảo luận về chương trình viện trợ tái thiết hậu chiến cho Ukraine.

 

Điển hỉnh đầu tiên là Liên Âu đang soạn thảo chiến lược "Rebuild Ukraine” để chuẩn bị cho việc điều hành Quỹ Tương trợ Ukraine. Dù minh danh trong vai trò lãnh đạo, nhưng Liên Âu sẽ tìm cách phối hợp kế hoạch này với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Hoa Kỳ, Canada, Anh và các định chế tài trợ khác.

 

Chủ đề tái thiết cũng đã được Tổng thống Volodymyr Zelenskyi đề cập tại Diễn đàn Davos năm nay. Ông kêu gọi các doanh nghiệp quốc tế nên sớm rời bỏ thị trường Nga và chuyển hướng đầu tư cho Ukraine  khi hoà bình tái lập. Tại Davos, các chuyên gia kinh tế đồng thanh kết luận là: “Chính phủ Ukraine sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc soạn thảo và thực hiện kế hoạch tái thiết”.

 

Trong một cuộc họp gần đây tại Brüssel, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Janet Yellen cho biết là việc tiến hành tái thiết Ukraine sẽ theo như các kinh nghiệm của kế hoạch Marshall. Hầu như tất cả giới hoạch định xem đây như là một kế sách lý tưởng và công cụ hợp lý để tái thiết cho bất cứ một nền kinh tế hậu chiến nào.

 

Nhưng đề xuất này có phù hợp cho tình hình Ukraine hiện nay không, đó là vấn đề sẽ được thảo luận trong bài viết sau đây. Trước hết là nhìn lại bối cảnh hình thành và thành tựu của kế hoạch.

 

Kế hoạch Marshall

 

Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, tình hình chung tại châu Âu vô cùng khó khăn. Chiến tranh tàn phá các cơ sở hạ tầng và nền công nghiệp bị hư hại nặng nề trong khi lương thực cung ứng trở nên khan hiếm trầm trọng, nhưng nguy hiểm nhất là Liên Xô đang bành trướng chủ nghĩa Cộng sản tại các nước Đông Âu. Trong khi các loại bất ổn ngày càng gia tăng, thì chính giới Mỹ quan tâm ưu tiên đến việc tạo ra một đối trọng chính trị để kềm chế Liên Xô thông qua các biện pháp tái thiết kinh tế. Ngoài ra, cũng theo chiều hướng này, Mỹ muốn tăng cường các cơ hội xuất khẩu để hỗ trợ cho nền kinh tế nội địa có điều kiện cất cánh.

 

Cách đây 75 năm, vào ngày 5/6/1947, tại Đại học Harvard, Ngoại trưởng Hoa Kỳ George C. Marshall đã đề ra chương trình viện trợ cho châu Âu mang tên "Kế hoạch Marshall". Thực ra, tên chính thức của kế hoạch là “European Recovery Program” (ERP, Chương trình Phục hồi châu Âu) có mục đích tái thiết lục địa này. Ngoại trưởng Marshall tin rằng, kế hoạch ERP sẽ tạo điều kiện xây dựng một nền dân chủ, hòa bình và thịnh vượng cho châu Âu thành công

 

Cụ thể là Mỹ cung cấp cho 17 quốc gia châu Âu các loại hàng hóa, máy móc, hàng hóa và thực phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, tài trợ tài chính và các khoản vay với tổng giá trị 13,3 tỷ đô la.

Trong danh sách các nước nhận được viện trợ nhiều nhất, đứng đầu là Anh với khoảng 3,5 tỷ đô la, Pháp khoảng 2,8 tỷ, Ý khoảng 1,5 tỷ và Tây Đức khoảng 1,4 tỷ, đứng ở vị trí thứ tư. Năm 1953, Kế hoạch Marshall hết hạn.

 

Khi tổng kết, ý kiến chung cho rằng, Kế hoạch Marshall đã làm cho nền kinh tế các nước trong khuôn khổ thị trường chung châu Âu hồi sinh trong những năm 1950. Điển hình nhất là sự trỗi dậy kinh tế và hội nhập chính trị của Cộng hòa Liên bang Đức .

 

Ngược lại, vì lý do dị biệt ý thức hệ, Cộng hòa Dân chủ Đức, giống như các quốc gia khác trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, từ chối nhận viện trợ của Kế hoạch Marshall.

 

Cho đến nay, Kế hoạch Marshall vẫn còn được xem như là một mô hình phù hợp cho các dự án phát triển kinh tế tại các nước chậm tiến. Gần đây nhất, một sáng kiến quốc tế cho kế hoạch toàn cầu hóa công bằng hơn đang thành hình, được mang tên "Kế hoạch Marshall toàn cầu". Cũng trong chiều hướng này, cựu Bộ trưởng Phát triển Đức Gerd Müller đã trình bày "Kế hoạch Marshall dành cho châu Phi".

 

Nhưng Kế hoạch Marshall có thích hợp cho bối cảnh tái thiết Ukraine không, các vấn đề dị biệt trong chi tiết cần được đặt ra.

 

Tái thiết hậu chiến Ukraine

Trong khi các giao tranh giữa quân đội Nga và Ukraine còn tiếp diễn và chưa biết được ai sẽ thắng ai, thì thảo luận về tái thiết không hẳn là một nhu cầu hợp lý và bức thiết. Thực tế cho thấy là ngược lại. Cộng đồng quốc tế và chính quyền Ukraine tỏ ý muốn phải bắt đầu lo tái thiết, vì hiện nay, sau hơn ba tháng chiến tranh, nhiều địa phương của Ukraine đã bị tàn phá nghiêm trọng, mà mức độ hủy diệt tương tự như thời Đệ nhị Thế chiến.

 

Khó khăn chính cho giới hoạch định là  ước lượng khả năng tài trợ và phí tổn tái thiết. Chi phí xây dựng cho cơ sở hạ tầng như thành phố, trường học, đường xá, phi trường và hải cảng chắc chắn sẽ còn lên cao hơn các con số đang được đưa ra hiện nay.

 

Điểm thực tế là Ukraine không thể tự lực tái thiết mà cần đến các nguồn tài trợ quốc tế, nên hiệu năng phối hợp các định chế tài trợ là một thách thức mới.

 

Liên Âu đã tiên phong thành lập một quỹ tương trợ cho Ukraine và đang phải cân nhắc xem hình thức viện trợ nào là chính: không hoàn lại hay cấp tín dụng.

 

Kinh nghiệm của Kế hoạch Marshall cho thấy, 95% ngân khoản tái thiết cho châu Âu là cung cấp viện trợ không đặt điều kiện hoàn lại. Cuối cùng, người dân Mỹ phải trả thuế để tài trợ cho toàn bộ chương trình này.

 

Theo một nghiên cứu sơ khởi việc tái thiết Ukraine của Centre for Economic Policy Research (CEPR) cho biết, các viện trợ không có điều kiện hoàn lại cần được thực hiện, có nghĩa là, không nên đặt ra các khoản vay có hoàn trả. Lý giải cho vấn đề là khi cho Ukraine vay tái thiết, tình trạng khủng hoảng nợ công sẽ phát sinh.

 

Chính giới hy vọng rằng, ngoài ngân khoản viện trợ chính thức, các nguồn thu bổ sung sẽ đóng góp cho chương trình qua các dự án đầu tư mới.

 

Những triển vọng này sẽ mở ra khi doanh giới tư nhân tham gia tái thiết, mà trong đó việc sử dụng năng lượng gió hay cho thuê bao hệ thống đường sắt tân tiến là các thí dụ.

 

Cũng theo ý kiến này, một nguồn thu khả dụng khác là các mặt hàng xuất khẩu của Nga sang châu Âu sẽ phải chịu thuế cao hơn, thí dụ như ngũ cốc và năng lượng.

 

Kinh nghiệm tài trợ cho chương trình tái thiết Irak cho thấy, Irak phải chịu trả một khoản thuế đặc biệt trong 30 năm

 

Một vấn đề rất hợp lý được đặt ra: Tại sao Mỹ và Liên Âu phải lo tài trợ cho Ukraine, trong khi Nga là kẻ xâm lăng? Bồi thường chiến tranh của Nga là lẽ công bình. Giới ngân hàng nhận ra một giải pháp phù hợp đặc biệt cho vấn đề. Các Ngân hàng Trung ương của các nước phương Tây đang phong toả khoảng 350 tỷ đô la của Ngân hàng Trung ương Nga và khoản thu này có thể được sử dụng cho việc tái thiết. Theo luật pháp quốc tế hiện hành, trong một số điều kiện nhất định, các khối lượng tài sản kếch sù của các nhà tài phiệt Nga cũng có thể được trưng dụng cho chương trình.

 

Ngược lại, giới hoạch định đặt ra một kịch bản khác bi quan hơn. Cuộc xâm lăng Nga sẽ kéo dài khốc liệt làm cho mức độ hủy hoại Ukraine sẽ trầm trọng hơn. Cuối cùng, kết quả không mong muốn lại đến: Nga thắng trận và toàn quyền định đoạt cho vấn đề tái thiết. Lúc đó, không ai biết những gì sẽ xảy ra tiếp theo.

 

Nhìn chung, thái độ của Nga chưa rõ ràng. Bao lâu quân đội Nga chưa rút ra khỏi hay sẽ ở lại lâu dài trong lãnh thổ Ukraine, thì chuyện tái thiết không nên đặt nhiều hy vọng. Hiện nay, Nga không thay đổi thái độ xâm lăng hay có thành tâm đàm phán. Tình trạng thắng thế trên chiến trường miền Đông làm cho Nga càng mở rộng các cuộc tấn công khắp nơi. Do đó, giải pháp hoà đàm càng bế tắc.

 

Càng lâm nguy hơn là tương quan lực lượng quá bất lợi, vì Ukraine thiếu vũ khí nặng để chống trả, trong khi phương Tây lại viện trợ chậm trễ. Chuyển biến tiêu cực khác là công luận quốc tế tỏ ra bắt đầu mệt mỏi vì chiến cuộc sẽ còn kéo dài, một phần là vì hiện tượng lạm phát gia tăng.

 

Tóm lại, mọi triển vọng trên chính trường đều tùy thuộc vào tình hình chiến trường. Khi chiến tranh kết thúc, thì mối quan hệ ngoại giao mới sẽ định hình cho việc tái thiết.

 

Hồi sinh kinh tế Ukraine

 

Dù ai thắng cũng vậy, sự sống còn của đất nước và con người Ukraine không định đoạt chỉ do giải pháp quân sự mà làm sao cho nền kinh tế bị tàn phá sẽ được vận hành hiệu năng. Chính quyền Ukraine phải làm gì trước tình hình mờ mịt này?

 

Các biện pháp tiên quyết là các cơ sở kinh tế hạ tầng phải hoạt động trở lại, mà điển hình là thủ đô Kiew và các thành phố khác cần phục hồi sinh lực và các doanh nghiệp sản xuất trở lại mức bình thường.

 

Trong việc định hình cho tương lai hồi phục của Ukraine, có lẽ các kinh nghiệm quốc tế sẽ một phần đóng góp hữu ích cho chính giới, mà Israel là một thí dụ điển hình. Lịch sử đã chứng minh, dù nhiều hoà ước với Palestine đã được ký kết, nhưng Israel luôn phải lo âu đối phó với các cuộc không kích của Palestine. Trong việc tái thiết, Israel không phải chỉ lo xây dựng các các cơ sở hạ tầng kiên cố cho trường kỳ, mà ngược lại, cũng phải điều nghiên sao cho có thể biến dạng các công trình thành các công sự phòng thủ trong khi nguy biến.

 

Theo các chuyên gia, vì các lý do chiến lược và kinh tế, Ukraine cũng không thể xử lý khác hơn Israel khi tình trạng an ninh còn nhiều bất ổn.  

 

Một thí dụ khác là Ukraine nên xây dựng các cơ sở hậu cần cho tương lai theo một quy mô nhỏ và rãi rác. Khi Ukraine tập trung vào một cơ sở duy nhất quy mô với giá khoảng 10 triệu đô la, thì Nga sẽ sẵn sàng sử dụng một loại hoả tiễn với giá khoảng 3 triệu đô la để phá huỷ.

 

Nếu Ukraine sẽ xây khoảng 10 cơ sở nhỏ  trong các khu vực công nghiệp khắp nơi cùng với các khoản đầu tư để bảo vệ bằng hệ thống phòng không xung quanh, thì Nga sẽ có các trở ngại đáng kể về việc phác hoạ các kế hoạch tấn công cũng như chi phí cũng tăng lên một cách tương ứng.

 

Do đó, Ukraine cũng nên cân nhắc về mô hình xây dựng này, không chỉ liên quan đến bảo vệ cơ sở hậu cần, mà trong một ý nghĩa chiến lược toàn diện cho nền an ninh quốc phòng.

 

Người tỵ nạn Ukraine không thể hồi cư trong khi các chương trình xây dựng gia cư chưa hoàn tất, đó cũng một nhu cầu khẩn thiết.

 

Về phía Nga thì ai cũng thấy Nga là bậc thầy trong mọi bội ước quốc tế, nên luật pháp quốc tế không thể bảo đảm là Nga sẽ tôn trọng hoà ước; ngược lại, sẵn sàng chiếm trọn lãnh thổ Ukraine trong tương lai.

 

Nếu đã hai lần Nga xâm lăng Ukraine, thì lần thứ ba cũng có thể sẽ xảy ra, cho dù Nga, lại một lẩn nữa, bị cả thế giới lên án. Cộng sản Việt Nam vi phạm Hiệp định Paris năm 1973 và chiến thắng quân sự năm 1975 là một bài học mà Nga sẽ mang ra áp dụng cho Ukraine. Do đó, cũng như  miền Nam Việt Nam, hoà bình sẽ không vãn hồi và Ukraine cũng không thể lo tái thiết.

 

Về phía Đức thì Đức và Ukraine hoàn toàn khác biệt. Nói chung, triển vọng thành công của một chương trình viện trợ phát triển không chỉ giới hạn ở thành tâm thiện chí và khả năng của các quốc gia cấp viện, mà chủ yếu còn tùy thuộc vào thể chế chính trị và phương thức vận hành của quốc gia nhận viện trợ.

 

Trong ký ức tập thể của người Đức, áp dụng Kế hoạch Marshall đồng nghĩa với việc tái thiết thành công. Thành tựu này có nhiều lý do giải thích. Kế hoạch Marshall đã giúp cho Đức tái thiết từ một nền kinh tế bị chiến tranh huỷ diệt thành một khuôn khổ thích hợp cho việc tái hoà nhập đất nước vào trong một nền kinh tế thị trường chung châu Âu và quốc tế và phân công lao động quốc tế.

 

Nhưng hiện nay, trình độ dân trí, lực lượng lao động và nguồn vốn khả dụng của Đức sau chiến tranh là một cảnh quan tái thiết mà Ukraine không thể so sánh tương tự. Ukraine không phải là một quốc gia cựu thù bị Mỹ chiếm đóng toàn bộ như Đức sau 1945. Sự phụ thuộc của Ukraine vào Nga hay viện trợ quốc tế là chưa rõ ràng.

 

Gần đây nhất là kinh nghiệm của Afghanistan và Iraq, hai bài học mà Ukraine cũng cần lưu tâm.

 

Theo CEPR, chỉ riêng trong năm 2003, chính phủ Hoa Kỳ đã cung cấp 145 tỷ đô la cho Afghanistan. Việc áp dụng kế hoạch hoàn toàn thất bại vì các mục tiêu đặt ra không thực tế, thiếu phối hợp, tham nhũng và quan trọng nhất là người dân địa phương không thiết tha tham gia. Do đó, kế hoạch không bao giờ thực sự bắt đầu và không có những thay đổi thật sự cho đất nước và dân chúng.

 

Đối với Irak thì kể từ năm 2003, các định chế viện trợ quốc tế đã cung cấp cho Irak khoảng 220 tỷ đô la. Cũng giống như tại Afghanistan, các thất bại là do thiếu phối hợp và giám sát, tình hình tham nhũng trầm trọng và an ninh yếu kém. Nhưng tại Irak có một nghịch lý đặc biệt nhất: một đất nước giàu dầu mỏ lại không thể cung cấp đủ điện cho người dân. Chỉ có một vài doanh nghiệp Irak mới nhận được viện trợ, mà lý do cũng là vì lợi ích đặc biệt của quốc gia tài trợ. Lý giải được đề cập nhiều nhất trong mối tương quan này là áp lực nặng nề của Mỹ khi điều hảnh chương trình. Nếu Irak muốn sử dụng Quỹ tái thiết của Mỹ, thỉ điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp Mỹ phải có đặc quyền tham gia tái thiết.

 

Khó khăn này chắc chắn cũng sẽ xảy ra cho Ukraine. Hiện nay chưa biết được là Ukraine có thể tránh được khó khăn này bằng cách xử lý nào.

 

Lãnh đạo cho công cuộc tái thiết có nghĩa là Ukraine phải tìm cách phối hợp với các định chế cấp viện, do đó, cần có một cơ chế hữu hiệu để đáp ứng cho trách nhiệm này và vấn đề hiệu năng điều hành của thể chế chính trị là một trở ngại lớn.

 

Thể chế chính trị Ukraine

 

Theo suy nghĩ thông thường của dân chúng, họ nhìn vấn đề thực tế hơn, cụ thể là, chính quyền muốn làm gì thì làm, nhưng tiền viện trợ phải thực sự đến tay dân chúng.

 

Triển vọng này là bi quan, vì không thua Việt Nam, hệ thống công quyền của Ukraine kém hiệu năng và tệ trạng tham nhũng lan rộng.

 

Mục tiêu lý tưởng mà Ukraine phải theo đuổi là kiểm soát việc thất thoát tiền viện trợ và tạo ra những năng động thúc đẩy cho các doanh nghiệp nhỏ vả dân chúng tại các địa phương có điều kiện trực tiếp tham gia. Sự phối hợp để phát triển cách vận hành cơ chế hành chánh nội địa gặp phải một khó khăn khác: xung đột mục tiêu tái thiết mang tầm vóc quốc tế.

 

Do đó, chính quyền Ukraine phải xác định các mục tiêu, thủ tục và tuyển chọn đối tác thực hiện. Nhu cầu giám sát các dự án và đo lường mức độ tái thiết trong tiến trình này là các nhiệm vụ chính.

 

Một trong những điểm dị biệt giữa Đức và Ukraine là hệ thống công quyền. Cơ cấu điều hành của Đức sau năm 1945 chứng tỏ là đạt nhiều hiệu năng, một lợi điểm mà Ukraine chưa phát triển tương xứng. Những đặc điểm mà Ukraine hiện nay lên đến mức báo động là tệ nạn tham nhũng mà chỉ số quốc tế về mức độ đã chứng minh.

 

Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) đã xếp hạng Ukraine là quốc gia đứng thứ 122 trong số 188 quốc gia về chỉ số tham nhũng và cảnh báo nền hành chánh công quyền còn quá kém hiệu năng.

 

Năm 2019, Toà Kiểm toán châu Âu đã kết luận: “Tham nhũng ở cấp cao nhất và cái gọi là chiếm đoạt tài sản nhà nước đang lan rộng. Tình trạng này không chỉ làm cản trở sức cạnh tranh và mức độ tăng trưởng, mà còn huỷ diệt tiến trình dân chủ hóa. Hàng chục tỷ euro bị mất mỗi năm do tham nhũng.”

 

Ngược lại, sau năm 2014, qua các cuộc biểu tình ở Maydan, nhiều chuyên gia tỏ ra lạc quan hơn khi đề cao những biện pháp cải thiện ở Ukraine.

 

Theo một báo cáo cho biết: "Một xã hội dân sự mạnh mẽ đang thành hình và gây áp lực mạnh mẽ lên chính phủ. Nhiều biện pháp cải thiện của chính phủ được đưa ra, thí dụ như trong tất cả các giao dịch mua sắm phải thông qua một chương trình phần mềm, nhờ thế mà ngân sách tiết kiệm được khoảng mười phần trăm.”

 

Chính phủ cũng đã thành lập một cơ quan  điều tra tham nhũng và khoảng một trăm trường hợp cá nhân đã được xử lý. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống tư pháp còn nhiều khiếm khuyết. Do đó, dù được xử lý, sau đó, án lệnh không được thi hành.

 

Từ năm 2019, một tòa án chuyên trách chống tham nhũng được thiết lập và cũng khởi tố được nhiều vụ án. Nhìn chung, có rất nhiều tiến bộ trong chiều hướng này".

 

Triển vọng

 

Tương lai tái thiết tuỳ thuộc vào việc Ukraine có cách nào bắt kịp trình độ phát triển của các nước tiên tiến không. Chiến tranh đã làm cho Ukraine bị tụt hậu mọi mặt mà hậu quả là không còn phát triển bằng các nước khác trong khu vực. Tổng sản lượng quốc gia của Bulgarie tăng gấp hai lần và Rumanien gấp ba lần Ukraine là thí dụ.

 

Lý thuyết đã chỉ ra rằng, trong tình trạng cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, các nước nghèo sẽ có một cách đặc biệt để đuổi bắt trình độ phát triển của các nước  phương Tây một cách nhanh chóng: giải pháp đó là áp dụng thành công các biện pháp canh tân giáo dục và tiến bộ kỹ thuật.

 

Nhưng thực tế là ngược lại. Trong một cái nhìn toàn diện, công cuộc tái thiết Ukraine, cũng còn có một ý nghĩa khác sâu xa hơn, đó là chuyển đồi một xã hội hậu cộng sản từ mô hình của Liên Xô cũ trong tiến trình dân chủ hoá theo châu Âu.

 

Nhìn trong nhãn quan này, nên bi quan hơn là thực tế. Nhìn lại trào lưu dân chủ hoá trong toàn cảnh, cho đến nay, chưa có một xã hội chuyển hoá hậu Cộng sản nào mà công việc đuổi bắt là thành công một cách có hệ thống.

 

Nền kinh tế Ukraine có lợi thế xuất khẩu nguyên vật liệu và ngũ cốc, xuất khẩu lúa mì đứng hàng thứ ba của thế giới, khách hàng chính là Trung Quốc, Bắc Phi và Trung Đông và cung cấp 50 % ngũ cốc và dầu ép từ hoa hướng dương cho toàn cầu. Đó là một bước tiến hợp lý cần tập trung, nhưng trong trường kỳ, nó chưa đủ để tạo bước đột phát cho một chiến lược phát triển mang nhiều triển vọng: việc công nghiệp hoá và mang phúc lợi cho người dân còn cần nhiều cải cách khác toàn diện hơn hỗ trợ.

 

Kết luận

 

Chiến tranh đang làm thay đổi Ukraine. Không ai xác định được là Nga hay các định chế cấp viện quốc tế sẽ đóng vai trò chủ yếu cho Ukraine hồi phục và cất cánh, nhưng khi cuộc chiến còn kéo dài, thì một tương lai bất trắc còn đang chờ đợi. Dó đó, còn quá sớm để kết luận là Kế hoạch Marshall thích hợp cho chương trình tái thiết hậu chiến Ukraine.

 

Nếu Nga thắng trận, hoà bình sẽ không tái lập, Ukraine không được bình yên để bắt đầu lo tái thiết, mà Ba Lan sẽ lo âu về một cuộc thế chiến thứ ba và cộng đồng thế giới chuẩn bị cho một trật tự mới sẽ thành hình dưới sự lãnh đạo của Nga và Trung Quốc. Một cơn giông bão mới khởi đầu cho thế giới và tương lai hồi phục Ukraine sẽ chìm trong quên lãng.  

 

Đỗ Kim Thêm

 

Bài liên quan: Ukraine và vấn đề tái thiết hậu chiến

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.