Hôm nay,  

Phía bên kia vầng trăng

05/01/202311:08:00(Xem: 3780)
Tản mạn

giangBiển chạy dọc, dài theo hết California, vừa huyên náo, rất mơ màng, lại có chút gì đó nhịp nhàng trong cái tĩnh lặng của hoàng hôn.

 

Chiều tàn, với sắc đỏ thắm giọi soi xuống dòng nước, là chút mầu sâu thẳm của ráng chiều đang nhạt nhoà vào đêm tối. Chút ánh sáng sắp tàn, phai dần cho bóng đêm, đã luôn làm tôi chìm đắm trong những ly rượu đỏ, có khi muốn uống hết, uống cho đến khi nào im hơi…

 

 Mới bốn giờ, quá sớm cho bữa tối, tôi lang thang dọc theo phố biển San Francisco, nơi thiên hạ dập dìu với nhiều quán xá. Tiếng guitar văng vẳng trong gió đã làm tôi phải đi theo, tìm đến. Rất bồi hồi, tôi ngập ngừng rồi ngồi đại xuống lề đường, cạnh cái hộp đàn bên trong có những đồng tiền rơi vãi. Không chút ngạc nhiên, người nhạc sĩ hát rong vẫn tiếp tục ngân dài, thiết tha... The lunatic is in my head… I’ll see you on the dark side of the moon...

 

Tiếng guitar không mạch lạc, óng ánh như David Gilmour, guitarist của Pink Floyd, nhưng chồng chất trên sáu sợi dây đàn hơi lúng túng là tiếng hát tuyệt vời. Tiếng hát  diễn đạt mơ hồ ra một nơi hò hẹn, mà cho dù phải đợi tới ngàn năm sau, chắc cũng chẳng hề có ai muốn tới. Chúng tôi sẽ không tới, vì sợ sẽ làm ánh trăng vỡ tan, và cũng sẽ vỡ hết những vần thơ trác tuyệt, đẹp ngời như những giấc mộng vàng của ngàn xưa đan góp lại.

 

*

 

Cũng chẳng phải tôi đã quên mất một chiều khi đi cùng Anh tới Los Angeles Bus Station. Giờ để lên chuyến Amtrak đi Santa Barbara đã sát sao, tôi lại cứ nấn ná bên một ông homeless già, ngồi đàn say sưa Nocturne số 9 của Chopin trên một Piano rất mới, đặt ngay góc bên ngoài một quán Cafe của bus station nhộn nhịp, đông người. Anh gay gắt hối thúc, tôi năn nỉ được đổi vé chuyến sau.

 

Nocturne, Ballade và ngàn ngàn chuyến xe bus, Amtrak xuyên bang… Những tưởng mọi âm thanh xô bồ, náo loạn trên toàn thế giới đã hòa quyện cùng nhau nơi đây. Nhưng sao tôi vẫn nghe ra những mơ màng, nhận ra cách sống bạt mạng, sôi nổi và đẩy những đam mê của George Sand, cùng với khói thuốc cigar của Bà quyện bay nồng nàn, trong từng note nhạc đắm say của Chopin.

 

Nhạc, chúng ta nghe lúc thức, khi ngủ và ngay cả khi không nghe thấy gì giữa những ầm ĩ của thế gian. Nhưng bất chợt chúng ta nghe ra, nhìn thấy những đam mê, những chìm đắm của Chopin đang được đàn bởi một homeless.

 

Santa Barbara, ngày mai hay tuần tới? Những chuyến xe chắc vẫn chờ chúng tôi, bền bỉ. Nhưng sau hôm nay thì tôi còn biết sẽ tìm người Homeless Pianist này, nơi đâu? Cuối cùng, chuyến đi Santa Barbara của chúng tôi đã bị hoãn lại chẳng biết đến bao giờ, sau những lườm những nguýt và cả những đùng đùng giận dữ.

 

*

 

Mùa Hè Đỏ Lửa”, nhà văn Phan Nhật Nam đã gắn tên của một tác phẩm vào những nghiệt ngã, trầm luân của quê hương. Vậy mà tuổi trẻ chúng tôi chỉ loáng thoáng “nghe" chiến tranh qua radio hoặc với những phóng sự trên truyền hình, báo chí. Riêng anh tôi đã không chỉ nghe, mà còn “sợ". Nếu thi rớt, tương lai sẽ là những xa khuất mịt mù, không còn biết mình sẽ ở tận chốn nào, và đến những nơi đâu?

 

Một chiều tan học tôi về trễ, vì còn mải quanh quẩn trong sân trường hít hà mùi đất ướt. Tôi mê đắm cái mùi đất vừa ngai ngái vừa nồng nồng đầy quyến rũ, sau những cơn mưa nho nhỏ của Sài Gòn. Cái mùi âm ẩm mốc đó,  đã chẳng còn có bao giờ tôi được hít đầy cho hết phổi như muốn để dành thở tiếp, sáng mai. Nó đã mất tiêu, biến hết đi theo cùng với cement, và gạch đá.

 

Đi ngang qua phòng học của anh, tôi thấy chút là lạ. Lờ mờ trong bóng chiều sắp tối, anh tôi giật mình khi tôi mở sáng đèn. Trên bàn, bên cạnh sách vở là cây guitar bị đập nát. Tôi oà khóc và anh tôi cũng khóc theo, tiếng khóc của mất mát, của phẫn nộ, và bi ai. Tiếng khóc của anh em tôi trong một chiều tăm tối, ngân dài lan man với nhiều điều tiếc xót. Tôi mở hết những khoá, gỡ sáu sợi dây đàn như tách rời ra hết những mộng mị triền miên của anh mình, của chúng tôi.

 

Jimmy Page, Guitarist của ban nhạc Led Zeppelin, người mà anh tôi mơ ước sẽ trở thành! Bản “Going to California” của Robert Plant, với lead guitar Jimmy Page đã làm anh em tôi say sưa, nghe đi nghe lại từng sáng, mỗi chiều. Bỏ bê xao lãng hết việc học hành, đã nhiều lần làm Ba tôi giận dữ, la mắng.

 

Phải chăng khi đập nát một giấc mơ chỉ để đuổi theo một giấc mộng khác ít “dễ sợ” hơn, lòng anh tôi cũng đã nát tan như cây đàn mới vỡ? Chập chờn trong những giấc mơ của tôi sau đó, không phải bạn bè nào hết, cũng chẳng có gương mặt xanh xao vì sách vở của anh tôi, mà là cây đàn. Cây đàn đã châm theo ngọn lửa biến ra tro, đã không còn treo bên cạnh tủ sách trên căn gác nhỏ. Nhưng nó đã vang lên trong những giấc mơ đêm, mà loáng thoáng đôi khi còn có thêm đôi mắt biếc xanh, dáng dấp bụi đời, với mái tóc hippie quăn dài rất hấp dẫn của Jimmy Page.

 

*

 

Từ Downtown San Diego, tôi thích theo chiếc ca nô nhỏ qua bờ bên kia, thành phố biển Coronado. Biển, cho dù có sóng tràn, nước dạt đến đâu, âm thanh vẫn ngọt ngào thân ái. Tôi mê biển như nhớ dòng sông nhỏ trước hiên nhà những tháng năm còn ở lại, còn sống với những đay nghiến, rất âu lo và muôn ngàn tức giận.

                                   

Dọc theo con phố rộn ràng đầy du khách, tôi mua hai cafe, để cùng ngồi uống với một homeless hát rong. Tôi  thích ngồi với những nhạc sĩ bất đắc chí này ngoài đường phố, có khi là chai beer, hay một ly rượu đỏ. Tôi đã không nghe họ hát với lòng trắc ẩn, bởi sự trắc ẩn đâu đó đã như một xúc phạm lớn lao. Qua tiếng hát đục khàn hay vút cao. Chính họ đã phát sinh, nuôi nấng, đã gợi ra cho tôi những cảm xúc mới tinh, tuyệt vời và trong veo như giọt sương sớm trên những lá xanh.

 

Stairway to Heaven”, theo yêu cầu của tôi Ông đã hát thêm lần nữa, chỉ với cây guitar cũ kỹ bằng gỗ chứ không là đàn điện. Robert Plant hát bài này cường điệu và quay quắt làm dáng bao nhiêu, thì ông đã chỉ bằng một giọng chân phương hơi đơn điệu, nhưng với tiếng đàn rất bóng bẩy, tân kỳ. Ông hát như một tín hiệu cho nhân gian biết rằng: “ Đường lên tới trời cao, lên tới chốn thiên đàng xa xăm mù mịt kia, sẽ mãi mãi, sẽ muôn đời như một ước mơ đầy bất trắc…” Nhìn cây guitar ôm trong đôi tay gầy ốm của người hát rong, tôi chợt rùng mình. Trong xót xa tôi nhớ tới cây đàn của anh tôi, cây đàn đã nát tan theo cùng giấc mộng ngây thơ của tuổi mới lớn. Bỏ thêm những đồng bạc vào chiếc khay nhỏ, tôi yêu cầu ông đàn bản “Going to California” của Led Zeppelin. Nhạc đã dìu tôi trở về với những ngày tháng mà cả hai anh em lơ là, bỏ quên sách vở. Trên căn gác nóng như lửa thiêu, ngồi nghe như nghe kinh thánh từng note một, qua tiếng đàn thuỷ tinh của người nhạc sĩ mình yêu mến.

 

*

 

California, tôi đang ngồi đây, biển xanh êm đềm trong nắng chiều lấp lánh. Hôm nay đã chẳng có một người hát rong nào nơi những con phố tôi đã đi qua. Nếu có guitar bây giờ, tôi sẽ ôm đàn ngồi ngân nga hát. Tiếng hát tôi sẽ  như  tiếng chuông vang giữa chợ đời. Tôi sẽ hát cho những giấc mộng xa vời tuổi nhỏ, những thất thoát niềm tin tuổi mới lớn. Và còn mong manh chút hơi thở cuối cùng, tôi dành lại chỉ để  hát cho phía tăm tối bên kia của vầng trăng.

 

Trăng. Nơi tôi sẽ phải đến, sắp đến như đã cùng có lời hò hẹn...

 

“...The lunatic is in my head…”

I'll see you on the dark side of the moon…”

 

– LêChiềuGiang

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.