Hôm nay,  

Huế nghìn trùng xa cách của tôi

12/01/202321:29:00(Xem: 2977)
Tùy bút

Trường_Đại_học_Sư_phạm_Huế


Đến với ngôi trường thân yêu Đại Học Sư Phạm Huế là một sự sắp xếp của Định Mệnh (đã an bài?). Tôi được sinh ra và lớn lên ở thành phố Sương Mù, xứ sở của Ngàn Hoa, Ngàn Thông, tất cả những ngôn từ mỹ miều mà các văn thi sĩ đã tặng cho thành phố trong tim tôi. Đến khi phải chuyển trường từ em bé chưa lớn đến nơi PHẢI lớn để tự mình quyết định ngã rẽ của tương lai, của cuộc đời sáng hay không sáng, tôi thật bỡ ngỡ, nhưng chị cả của tôi đã vẽ cho tôi từ vài năm trước là mình sẽ có viễn cảnh qua với chị ấy bên xứ Gà Lôi (Gaulois – xứ của thủ đô Ánh Sáng Paris) để đạt được ước nguyện làm nghề cứu người, nơi nhiều đêm tôi cứ mơ sẽ được đến thăm bao nhiêu thắng cảnh mà từ bé chỉ được nhìn thấy trên sách vở. Thật là một ước mơ thần tiên!

Nhưng rồi ông Trời khéo sắp xếp để rồi…

 

Miền sông Hương thơ mộng là cội nguồn của tôi với Hương Trà, Tiên Nộn, quê của Ba và Me tôi lại là nơi ấp ủ thời Vàng Son yêu quý của tôi, sau thời gian tuổi thơ đầy hạnh phúc bên cha mẹ anh em ở cái thành phố miền cao nguyên trữ tình ấy. Những ngày tháng êm đềm trôi qua bên thân phụ, tuy người rất bận rộn với công việc nhưng cũng thường cho tôi đến nơi chôn nhau cắt rốn của người và của Me tôi, tôi thật sự yêu mến biết bao dòng Hương thơ mộng và những con lạch, nhánh sông nhỏ ở những ngôi làng tuổi nhỏ của Ba Me tôi.

 

Hương Trà của Ba tôi, những con lạch, những khóm tre đan vào nhau, những cánh đồng lúa xanh mướt, mùa lúa chín thì không có hương thơm nào sánh bằng, và suốt đời vẫn nghe được mùi hương đậm đà ấy trong tim – đây là lần đầu tiên đứa nhà quê mới biết cây lúa của Đất Mẹ, việc cày cấy cực nhọc như thế nào, người dân lam lũ bán lưng cho trời, hàng giờ dầm mưa dãi nắng, ôi có được hạt lúa phải đánh đổi bằng bao nhiêu mồ hôi nước mắt! Thuở xưa chưa có máy cày còn vất vả hơn biết dường nào! Có lúc người nông dân còn phải kéo cày thay trâu. Xót xa! Ước mong sao các thế hệ thứ 2, thứ 3 ở xa quê hương, một ngày tìm về chứng kiến tận mắt công khó của Cha Ông để có được hạt cơm thơm bùi!

 

Dòng sông tuổi nhỏ ở Tiên Nộn của Me, ôi hiền hòa thầm lặng, những ngọn sóng nhỏ vỗ vào bờ tạo cảm giác lâng lâng, nước mắt bỗng dâng trào khi trở về thăm thời gian gần đây, Ngoại tôi và các cậu, và Me đã giặt giũ, gánh nước sông về, lao đao vất vả... Ước gì cậu và Me còn ở bên con để kể cho con nghe... Anh chị tôi được diễm phúc về sống bên Ngoại, chị kể có lần hai cậu giành nhau hột xoài, thế là ông Ngoại phạt cậu lớn, cậu buồn và tức, tại sao làm anh phải nhường nhịn?

Cậu lấy bút mực vẽ hột xoài trên vai, Ngoại tôi nhìn thấy và thương cậu quá đỗi. Cậu bơi rất giỏi, và dòng sông ấy chỉ là trò đùa với cậu, có lần chị tôi mới thấy cậu đó mà thoắt cái đã sắp sang bờ bên kia, chỉ có chỏm đầu nhô lên thụp xuống, chị tưởng cậu đã chết trôi, vừa khóc vừa la “Nhậu, nhậu ơi!”

 

Ôi xứ Huế đẹp làm sao! Lúc đó tôi mới thầm cám ơn Định Mệnh đã cho tôi đến gần với Đất Mẹ thay vì đi khám phá xứ người. Đồi Thiên An thơ mộng, với tiếng thông reo ngút ngàn như ở xứ buồn của tôi, lúc nớ mình mới bắt đầu “được” lớn, chưa bao giờ đi một mình với ai, nên chưa có "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" trên ngọn đồi thơ mộng này, thật giống Thung Lũng Tình Yêu của xứ Sương Mù, để bi chừ lại gom bao kỷ niệm thêm nữa – tiếc thay! Các chùa Từ Đàm, Từ Hiếu, trang nghiêm cổ kính, các lăng tẩm uy nghi lộng lẫy của các vua là những nơi sinh hoạt lớp, mùa đông rét mướt mưa dầm, mùa hè nắng cháy khô rát, với bao kỷ niệm dấu yêu. Những buổi trại liên lớp, liên trường, những lần đi cứu lụt ở các miền quê hẻo lánh, mới biết được nỗi khổ "trời hành cơn lụt mỗi năm…" của xứ đất khô cỏ cháy, người dân thương yêu lao đao như thế nào.

 

Những môn học cùng với liên lớp, thầy Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu, thầy Khoa Trưởng Sư Phạm Nguyễn Đức Kiên, thầy Khoa Trưởng Khoa Học Nguyễn văn Hai, thầy Khoa Trưởng Văn Khoa Nguyễn Quới, v.v… Đại Học Khoa Học, Thầy Nhơn, với những bài thật sâu sắc về Toán Học, cách giải thần kỳ của Thầy, giọng nói Huế rất cương quyết, vững chãi thân thương làm sao. Nhưng rồi học với Thầy không được bao lâu lại nghe tin Thầy bị nạn trên đèo Hải Vân. Con xin dâng nén hương muộn đến Thầy kính quý. Thầy Nguyễn Mạnh Hùng, Ông Cọp của sinh viên Huế – con xin lỗi Thầy – (và chắc là của Saigon nữa, vì Thầy phụ trách các môn Hoá Vô Cơ & Hữu Cơ của các trường Y Dược với những giờ đứng tim ở Giảng Đường C... Cô Hạnh Nhơn xinh đẹp giỏi giang, Thầy Ấm dạy Anh Văn, Thầy Nguyễn Ngọc Mỹ, Thầy Chính dạy môn Môi Trường Sống cùng Thầy Nguyễn văn Hai và nhiều thầy cô khác. Cha Lefas, Cha Oxarango, thầy Bùi Thế Cần, giảng về văn học nước Pháp, về ngôn ngữ La Tinh ở Đại Học Sư Phạm & Văn Khoa, bao nhiêu khám phá về những tinh hoa của văn học các nước, những nhận xét kiến thức uyên bác của các thầy.

 

Khung Trời Đại Học, với bao chuyện trong mơ, những lá thư nhờ người vào lớp trao lại “Anh theo Ngọ về... Anh trao vội vàng/ Chùm hoa mới nở/ Ép vào cuốn vở...” *

 

Rồi những lần vừa ra khỏi cổng trường, rùng mình khi thấy ai đi với nhiều bạn "dữ dằn" tài xế máy bay, rồi theo mình và cô bạn Kim Thanh một đoạn đường từ trường về đến cư xá, ngày thường mình đi chỉ mươi phút, tại răng hôm nớ thời gian lại vô cùng tận không biết! Hai cái chân cứ xoắn vào nhau, không bước nổi! Ôi nếu như Ba trông thấy thì sao ta? Ừ nhưng mà không sao, vì mấy ngày trước, khi họ về xứ biển và gởi thư, mình đã đưa Ba xem rồi... bạn bè thì đã thấy và khiếp rồi, tưởng mình là dân chơi thứ thiệt, biết đâu rằng mình chỉ mới gặp họ trên phi trường khi đi đón cậu em từ Dalat ra thôi mà.

 

Và những sinh hoạt của Viện Đại Học, thi đấu giải Cầu Lông của trường, của Viện, hồi hộp làm sao khi "khán giả đặc biệt" đang dõi theo quả cầu (hay nhìn vẻ mặt căng thẳng của mình vậy ta? Ôi…) Hay của Liên cư xá, và "họ" đứng trên lầu nhìn xuống làm hắn bủn rủn tay chân.

 

Những lần đi sinh hoạt với lớp Pháp, anh Trưởng lớp thật sốt sắng, dễ thương vô cùng, lên chùa Từ Đàm, đồi Thiên An, các Lăng tẩm của các vị vua... Các bạn ơi, còn nhớ hay quên? Thân thương quá đỗi!

 

Giờ đây, có bạn đã ra đi, bạn có mỉm cười khi L nhắc đến những giờ phút thần tiên của lớp mình?

 

Lần đi trại Liên lớp Pháp ở biển Thuận An, những sinh hoạt thi đấu, mọi người đều vui chơi như những tháng ngày thời Trung học. Trên đường về, khi thấy cô gánh cá bị đổ cả mâm xuống đất, mình đã không ngại xuống nhặt cá giùm cô ấy. (Đúng ra mình chẳng nhớ chi tiết ấy, nhưng có người mới nhắc lại và "cảm phục biết bao cử chỉ nhân ái của L” – người có biết L là "Hướng Đạo sinh Giúp Ích”, người ạ!)

 

Những đêm Đại Học Sư Phạm, đêm Luật Khoa, đêm Y Khoa… sao mà đáng yêu, thơ mộng, và đáng quý đến vậy!

 

Ai đã đưa mình về, trên Cầu Mới, ai đang ở đâu nhỉ?

 

Rồi "Café chị Giang", ngày ấy mình chỉ biết Café Tổng Hội. (Mới đây qua truyện rất siêu của một người rất siêu, mình mới biết ngày ấy các người "pro" gọi là Café Chị Giang – L cám ơn người nha), nằm đối diện trường Khoa Học, mà mình và bạn chỉ mới vô được 1, 2 lần, vì luôn thấy các anh nam đầy trong ấy, ngại chi lạ... và rồi lại "mắc nợ" cái Band-Aid**, vì trước đó đi xe gắn máy của Sơn Tinh Thủy Tinh Y Khoa, bị ngã, và băng tay, khi vô đó, bỗng dưng gặp người kia, "họ" thấy băng cần phải thay, và đưa cho mình cái Band-Aid… Rứa là mắc nợ, và chưa trả được nợ, người ạ.

 

*

 

Nhưng rồi, ngôi sao của mình không sáng như đàn chị đàn anh, họ đã có thể trải dài những kiến thức do công lao miệt mài của Thầy Cô đến các học trò của họ. Họ đã có thể ươm mầm để bao khu vườn luôn rực rỡ dưới ánh bình minh. Còn khóa của chúng tôi, chưa xong được 4 năm thì đã vội vàng tan đàn xẻ nghé! Đất nước loạn lạc, trường lớp, cô thầy, bạn bè khắp nơi người còn kẻ mất, đớn đau biết mấy! Hơn ba năm ở giảng đường, bây giờ còn lại gì? Mớ kiến thức chưa hoàn thành! Ngày Đại Đăng Quang không được hãnh diện để Cha Mẹ vui lòng, Thầy Cô mãn nguyện. Số kiếp sao đọa đày đến vậy!

 

Bạn bè cùng khóa, người vẫn tiếp tục đến trường để hoàn tất chương trình, còn số đông đã tứ tán khắp nơi, làm đủ nghề thượng vàng hạ cám, người ra đi mãi mãi, người may mắn đến quê hương thứ hai…

 

Huế của tôi ơi, trường Đaị Học Khoa Hoc, Sư Phạm, Văn Khoa thương mến, quý thầy cô và bạn bè của tôi, tôi vẫn luôn nghĩ về và thương nhớ nhiều.

 

Xin cảm ơn Định Mệnh đã đưa đẩy tôi được biết thêm về Quê Cha Đất Tổ.

 

Những dòng này con xin kính dâng Ba Me thương kính, con chưa đền đáp công lao Sinh Thành.

Xin dâng các Thầy Cô, con chưa được hân hạnh nói lời Cảm Tạ.

 

Và gởi đến các bạn đồng môn khắp nơi, nghĩ về hành trang cuối cùng của mình để đi Vào Đời, với lòng xót xa và yêu thương vô hạn.

 

Xin mượn 13 chữ trong bài hát Tạ Ơn của nhạc sĩ Trịnh công Sơn: “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin Tạ Ơn Người, Tạ Ơn Đời

 

Xin Tạ Ơn.

 

tháinữlan

 

* Ngày Xưa Hoàng Th, thơ Phạm Thiên Thư;

** Mời đọc "Món nợ cái Band Aid" của tháinữlan.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.