
Nhiều nghiên cứu cho thấy, những cuốn tiểu thuyết yêu thích của chúng ta chắc chắn có thể có tác động lớn hơn và lâu dài hơn đối với não bộ của chúng ta về mặt sinh học. Photo của Daria Nepriakhina 🇺🇦 từ Unsplash)
Nghệ thuật kể chuyện (storytelling) đã đồng hành cùng chúng ta từ buổi bình minh của nền văn minh, và thậm chí có thể là từ những ngày đầu tiên của nhân loại. Bán cầu não trái của chúng ta tự động sắp xếp mọi thứ theo dạng một câu chuyện, để chúng ta hiểu được thế giới và bản thân mình. Trong cuốn sách bán chạy Sapiens: Lược Sử Loài Người, sử học gia Yuval Noah Harari đưa ra lập luận rằng sự phát triển của chúng ta từ các nhóm sơ khai đến các xã hội phức tạp chỉ diễn ra nhờ vào khả năng kể chuyện và niềm tin của chúng ta vào các câu chuyện.
Những câu chuyện được chia sẻ và những giá trị gói gọn trong đó đã giúp chúng ta tổ chức, truyền cảm hứng cho chúng ta đặt ra những mục tiêu cao cả và thúc đẩy chúng ta chấp nhận đối mặt với rủi ro, học hỏi từ những thất bại để trưởng thành, và từ đó phát triển những phương pháp mới để tương tác với thế giới. Nhưng chuyện không chỉ có vậy.
Ngày nay, đặc biệt là trong thời đại của Internet và các trang mạng xã hội, sức mạnh của cách kể chuyện hay thậm chí còn quan trọng hơn bao giờ hết. Nó có thể giúp các công ty bán sản phẩm chạy, các tổ chức vô vụ lợi tìm được nguồn tài trợ và những người đam mê YouTube tìm được khán giả cho mình, thậm chí trở thành ngôi sao. Con người chúng ta khao khát những câu chuyện và khám phá chúng.
Nếu thử hỏi những người thích đọc, họ sẽ có thể kể tên một cuốn tiểu thuyết hoặc truyện ngắn nào đó đã ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Thậm chí một nghiên cứu còn phát hiện ra rằng đọc các tác phẩm văn học thực sự có thể cải thiện sự đồng cảm bằng cách giúp họ cảm thông với những cảm xúc của người khác. Nghiên cứu mới sử dụng chức năng quét fMRI, đã phát hiện ra được mạng lưới thần kinh nào được kích hoạt khi người ta đọc một câu chuyện. Trong một nghiên cứu của Trường Emory, được công bố trên tạp chí Brain Connectivity năm 2013, các khoa học gia muốn biết liệu việc đọc một câu chuyện có thực sự thay đổi cách vận hành của bộ não hay không.
Nghiên cứu được dẫn đầu bởi nhà thần kinh học Gregory Berns, cùng với 24 sinh viên trường Emory tham gia, kéo dài tổng cộng 19 ngày. Trong năm ngày đầu tiên, các sinh viên này bắt đầu đọc các bài đọc. Điều này được gọi là sự kết nối trạng thái nghỉ ngơi của bộ não. Mỗi người đều được cho đọc tiểu thuyết kinh dị Pompeii của Robert Harris. Ông Berns nói: “Nó mô tả các sự kiện có thật theo một cách hư cấu và kịch tính. Đối với chúng tôi, điều quan trọng là cuốn sách có một mạch truyện mạnh mẽ.”
Các tình nguyện viên đọc 30 trang của cuốn tiểu thuyết, mỗi đêm, trong chín ngày. Sáng hôm sau, họ sẽ được cho làm bài kiểm tra về những gì họ đã đọc, và được quét fMRI. Sau khi hoàn thành cuốn sách, các sinh viên sẽ được quét fMRI thêm năm ngày nữa. Kết quả cho thấy, họ đã tăng cường hoạt động ở vỏ thái dương bên trái, đây là vùng não chịu trách nhiệm khiến chúng ta tiếp thu ngôn ngữ. Khu vực này vẫn hoạt động tích cực hơn thậm chí năm ngày sau khi đọc xong cuốn sách. Các nhà nghiên cứu gọi đó là “hoạt động bóng” (shadow activity) mà Berns ví von như cơ bắp của trí nhớ.
Rãnh não trung tâm, một vùng vận động cảm giác, cũng cho thấy một bước nhảy vọt trong hoạt động. Khu vực này được liên kết với các cảm giác của cơ thể. Giáo sư Bern cho biết: “Chúng tôi phát hiện có những thay đổi thần kinh liên quan đến hệ thống cảm giác và cử động vật lý, cho thấy rằng việc đọc một cuốn tiểu thuyết có thể đưa người đọc đặt bản thân mình vào nhân vật chính.” Hiện tượng này được gọi là nhận thức có căn cứ. Có thể hiểu cách hoạt động như sau, nếu trong tâm trí quý vị cảm thấy mình đang chạy trốn khỏi nguy hiểm, nó sẽ kích hoạt các tế bào thần kinh liên quan đến việc chạy, ngay cả khi chân của quý vị không hề cử động.
Vẫn chưa rõ những thay đổi này kéo dài bao lâu trong não. Ông Bern nói: “Nhưng, những phát hiện này, trong vài ngày đọc một cuốn tiểu thuyết ngẫu nhiên, cho thấy rằng những cuốn tiểu thuyết yêu thích của quý vị chắc chắn có thể có tác động lớn hơn và lâu dài hơn đối với não bộ của quý vị về mặt sinh học.”
Một loạt nghiên cứu do Paul Zak thực hiện cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về cách những câu chuyện thay đổi bộ não. Paul Zak là một tác giả, diễn giả trước công chúng và là giám đốc sáng lập của Center for Neuroeconomics Studies tại Trường Claremont Graduate School. Trong thí nghiệm đầu tiên, ông và các đồng nghiệp đã cho khán giả xem đoạn clip về một người cha kể về việc cậu con trai hai tuổi của mình, Ben, bị ung thư. Sau khi hóa trị xong, Ben cảm thấy khỏe hơn. Cậu bé vui vẻ và tươi tắn, người cha kể lại. Chơi đùa với con trai, người cha cảm thấy hạnh phúc xen lẫn cay đắng, bởi ông biết rằng chừng sáu tháng hay một năm nữa, con trai mình sẽ không còn trên đời này.
Khán giả xúc động bởi hai cung bậc cảm xúc, xót xa và đồng cảm. Xót xa được thúc đẩy bởi hormone căng thẳng cortisol. Trong khi sự đồng cảm được tạo ra bởi oxytocin, chất dẫn truyền thần kinh “yên bình và âu yếm.” Nó giúp gắn kết những người yêu nhau, cũng như một người mẹ với đứa con mới chào đời. Một số người gọi nó là “hoóc-môn tình yêu,” nhưng Giáo sư Zak khẳng định đó là “phân tử đạo đức.” Đó là bởi vì nó giúp chúng ta phản ứng với các tín hiệu xã hội.
Các xét nghiệm máu trước và sau khi xem cho thấy những người đã xem đoạn phim có nồng độ hai chất sinh hóa này cao hơn sau khi xem. Các nhà nghiên cứu tiếp tục thực hiện một số nghiên cứu theo dõi. Và một mô hình xuất hiện từ đây. Những người cảm động trước bộ phim có sự thay đổi trong chất hóa học trong não, để rồi dẫn đến sự thay đổi trong hành vi của họ.
Sau khi xem đoạn phim, người xem được cho cơ hội cho tiền một người lạ. Những người có mức tăng cortisol và oxytocin cao nhất sẽ có nhiều khả năng chia sẻ tiền của mình hơn. Trong một nghiên cứu khác, những người xem đoạn phim được lựa chọn quyên góp cho tổ chức từ thiện dành cho trẻ em mắc bệnh ung thư, những người có mức tăng các chất sinh hóa này cao hơn có nhiều khả năng quyên góp hơn.
Ngay sau đó, Zak và nhóm của mình muốn biết liệu họ có thể dự đoán ai sẽ làm từ thiện và ai sẽ không. Nghiên cứu của họ không chỉ bao gồm các xét nghiệm máu mà còn cả hô hấp, độ dẫn truyền của da và theo dõi nhịp tim. Zak và các đồng nghiệp nhận thấy rằng họ có thể dự đoán ai sẽ cho và ai sẽ không với độ chính xác 80%.
Tất cả những điều này cho ta thấy là bất kể nền văn hóa nào, con người đều gắn bó mật thiết với những câu chuyện. Chúng là một phần cấu tạo nên nhân loại chúng ta. Theo nghĩa đen, những câu chuyện có thể khiến chúng ta đặt mình vào một nhân vật khác, khiến chúng ta cảm thấy đồng cảm hoặc thậm chí là có hành động. Không có gì khác có khả năng cho chúng ta thông tin, thay đổi suy nghĩ của chúng ta, mở khóa tiềm năng của chúng ta hoặc biến đổi chúng ta và xã hội của chúng ta theo những cách mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Giờ đây, chúng ta đang bắt đầu khám phá khoa học thần kinh đằng sau điều này và tìm hiểu chính xác cách chúng tác động đến chúng ta.
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “The Books You Read Really Make You Who You Are” của Philip Perry, được đăng trên trang BigThink.
Gửi ý kiến của bạn