Hôm nay,  

Sĩ diện người Hà Nội

11/08/202300:00:00(Xem: 2766)

 

Khanh-Truong
Khánh Trường

 
Tuổi già thường sống với dĩ vãng.
Nhiều chuyện tưởng đã vĩnh viễn ra khỏi trí nhớ, thế mà bất chợt bỗng hiện về, có khi mồn một từng chi tiết nhỏ, tựa mới xảy ra hôm qua, hôm kia, có khi nhập nhòa hư thực bất phân.
Chuyện này không lâu, chỉ 23 mươi năm, trước một năm ngày tôi bị tai biến. Nhớ, vì có một chi tiết, lạc đề, nhưng vui.

 
***

Điện thoại reo, tôi nhấc máy, đầu dây bên kia tiếng đàn ông, “Cháu là chồng của Hoàng Tố Mai, sẽ đến đón chú thiếm, khoảng mười lăm phút nữa cháu sẽ có mặt.”
   
Tôi bảo vợ chuẩn bị. Oanh nói, “Có gì đâu mà chuẩn bị, cậu ấy đến mình đi thôi.”
   
Nguyễn Bình Phương, chồng Hoàng Tố Mai, con gái nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cũng viết văn, tuy chưa gặp lần nào, nhưng qua giọng nói, tôi đoán có lẽ còn trẻ.
   
Đây là lần về Việt Nam thứ hai sau ngày vượt biển. Tôi ra Hà Nội thăm một số người đã từng gặp khi họ sang Mỹ, một số khác chỉ biết nhau qua trao đổi thư từ, email.
   
Tôi gặp Hoàng Ngọc Hiến ở Mỹ khi ông sang dự một hội thảo gì đó lâu quá tôi quên. Ra Hà Nội lần này tôi được HNH mời đến nhà ăn cơm.
   
Hà Nội, lần đầu tôi đến thành phố này. Trong dĩ vãng, từ những ngày còn thiếu niên, qua sách vở và truyền khẩu, Hà Nội trong suy nghĩ tôi là một địa danh lắm truyền kỳ, giai thoại hấp dẫn. Xóm Khâm Thiên, nơi hội tụ của các VNS, nhịp phách, ả đào, bàn đèn, khói thuốc… Sông Hồng vỡ đê, nước dâng cao hung tợn, cuốn trôi, nhận chìm tất cả, người, vật… trong Vỡ Đê (Vũ Trọng Phụng). Cái rét buốt xương của những cảnh đời khốn khổ trong Tôi Kéo Xe (Tam Lang). Và Tản Đà, Nguyễn Tuân… những “tay chơi” một thời. Tiểu thuyết, giai thoại, sự thật hòa trộn khiến vùng đất này, với tôi, như một người con gái kín cổng cao tường tôi luôn mong được có dịp chinh phục. Tôi mang tâm trạng này từ lúc lên phi cơ ở Tân Sơn Nhất đến bấy giờ, trên lầu hai một khách sạn giữa lòng thủ đô. Tôi phóng tầm nhìn ra xa, thành phố này về đêm không xô bồ như trong Nam (tôi đang viết về thời điểm những năm 90 thế kỷ trước. Nghe nói bây giờ HN không kém gì SG, nhất là ở những khu đô thị mới), có lẽ do những con đường không rộng, lượng xe, nhất là xe hơi, ít. Tôi ngước nhìn tán lá rậm đẫm ướt, vừa rồi một trận mưa vừa xối xuống, đã tạnh, khí hậu dễ chịu. Có tiếng Oanh, “Anh ơi, tiếp tân gọi, cậu Phương chắc đã đến.”
   
Hai người đang chờ chúng tôi. Một trẻ, người kia tóc bạc, mặt tròn phúc hậu. Thấy chúng tôi, người trẻ bước đến, “Thưa chú.”
   
“Anh là Nguyễn Bình Phương?”
   
“Vâng ạ.”
   
Phương quay sang ông già, “Bác Tô Hoài. Ba cháu mời cả bác ấy, tiện đường, cháu đón luôn.”

Tôi bắt tay hai người rồi nói với Tô Hoài, “Không ngờ được gặp anh, hân hạnh quá, như hầu hết bọn nhô con, ngày xưa tôi rất mê Dế Mèn Phiêu Lưu Ký.”
   
Tô Hoài cười không nói gì. Ra đến lề đường Phương gọi taxi cho tôi và Oanh. Phương đi xe gắn máy chở Tô Hoài.
   
Phương cho anh tài xế địa chỉ nơi đến và hỏi giá tiền rồi móc ví trả. Tôi vội nói, “Đến nơi, xem đồng hồ, tôi trả, vội gì.”
   
“Để cháu lo, ba cháu mời cô chú mà.”
   
Tô Hoài nói, “Phương nó nói đúng đấy, anh Hiến mời, Phương nó lo là chuyện đương nhiên.”
   
Bữa cơm thân mật, chuyện văn chương, chuyện nhân vật. Chị Hoàng Ngọc Hiến vui vẻ, cởi mở, không quên… kể xấu ông chồng với giọng âu yếm.
   
Sáng hôm sau nhạc sĩ Dương Thụ cùng một cô phóng viên báo Tuổi Trẻ phân bộ phía Bắc đến đưa chúng tôi đi tham quan các thắng tích của Hà Nội và một số nhân vật đang hoạt động văn học nghệ thuật. Suốt hai ngày, mọi chi phí Dương Thụ đều dành trả, với lý do thực hữu lý, chúng tôi là khách. Ngày thứ ba tôi nói muốn gặp Dương Thu Hương, Dương Thụ gọi, DTH tới, chúng tôi cùng đi ăn bún chả chợ Đồng Xuân. Tính nhà văn nữ này không khác con trai, phóng khoáng, mạnh mẽ, gọi tôi bằng mày, xưng tao rất… giang hồ, “Tao trả tiền, mày đừng ỷ mác Việt kiều, lên mặt, không được đâu.”
   
Những ngày ở Hà Nội, tôi gặp không ít anh em văn nghệ, Lê Đạt, Dương Tường, Bảo Ninh, Phạm Xuân Nguyên, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Đình Chính (con trai Nguyễn Đình Thi). Trong buổi họp mặt tại nhà Chính tôi đàm đạo với một nhà văn trẻ, anh ấy rất mê tín Phạm Công Thiện, thở ra toàn ngôn ngữ của ông thần này.
   
Còn nhiều, khá nhiều VNS khác tôi không nhớ tên. Tất cả đều có chung mẫu số: sĩ diện.
Nguyễn Huy Thiệp đến đón tôi ở khách sạn, anh mang tặng vợ chồng tôi một hộp trà sâm Đại Hàn, sau đó suốt hai ngày anh đưa chúng tôi thăm viếng nhiều nơi: di tích thành Cổ Loa, lăng mộ Đinh Tiên Hoàng, nơi thờ Lê Long Đĩnh, Thái Hậu Dương Vân Nga, Lê Hoàn… và nhiều chùa chiền, kể cả chùa có Thập Bát La Hán bằng gỗ sơn son thép vàng, lớn như người thật, đặt trên 18 bệ thấp dọc hành lang dẫn vào chánh điện. Hôm ấy mưa lâm râm, se lạnh, sân chùa ẩm ướt, cây sứ già nở hoa trắng rợp, những đài lá trĩu nước dưới ánh sáng âm u, chả hiểu sao lại gợi nhớ chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng. Điều đặc biệt, NHT đưa chúng tôi về nhà khoe tượng Quan Âm do chính tay anh thực hiện, tượng lớn, tọa lạc giữa sân. Tôi ngắm, không dám có ý kiến.
   
Trần Ngọc Tuấn (nhà thơ), cho tôi mượn xe hơi, cả tài xế. Vợ anh, đẹp, hình như diễn viên điện ảnh (?) đưa Oanh đi sắm áo dài lụa nổi tiếng của miền Bắc.
   
Lê Đạt vui vẻ, tính xởi lởi. Đúng là Lão Ngoan Đồng. Anh nghèo, chỉ đãi tôi uống cà phê.
Một chuyện lạc đề, nhưng vui.
   
Trong buổi ăn nhậu gồm nhiều VNS, bạn nào đó hỏi, “Nghe đồn anh ăn chơi khét tiếng phải không?”
   
“Trời! Làm gì có chuyện đó!”
   
“Đừng giấu, còn nghe nói anh có phương pháp bế tinh thần sầu. Dạy bọn này đi.”
   
Đã uống khá nhiều, hơi men biến tôi thành tên ăn tục nói phét, “Dễ thôi, khi xả nước đừng tồ tồ một lần mà hãy ngắt khoảng. Luyện tập một thời gian sẽ kéo dài hoặc xuất như ý muốn”.
   
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cười ha hả, “Hahaha… phải đặt tên phương pháp này là Đoạn thủy bí kíp.”
   
Những năm chín mươi Hà Nội còn khá vất vả, thế nhưng người Hà Nội, qua giới VNS, vẫn giữ được truyền thống tôi từng nghe: Sĩ diện.
 
Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.