Hôm nay,  

50 Năm Hòa Ước Paris, Nghe Lại Bình Ca Phạm Duy

22/12/202300:00:00(Xem: 6869)

binh ca
Vào những ngày cuối năm 2023, khi mà người Mỹ bắt đầu chuẩn bị cho những bữa tiệc Giáng Sinh, năm mới, bàn tán chuyện mua sắm, thì chiến sự giữa Isarel và Hamas chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Trên vùng đất thánh của cả ba tôn giáo lớn, những kiếp người lầm than chỉ mong có một ngày hòa bình, một ngày không bom đạn.

Cũng vào những ngày cuối năm 2023, người Mỹ bắt đầu nhìn thấy một viễn cảnh Ukraine bị bỏ rơi, phải chấp nhận đổi đất lấy hòa bình. Nhiều người Việt cho rằng Ukraine sắp là một Việt Nam Cộng Hòa khác, một đồng minh bị Mỹ bỏ rơi, nhưng sau một thời gian có thể nhanh hơn nhiều.

Năm 2023 cũng đánh dấu kỷ niệm 50 năm ngày hiệp định Paris được ký kết, đem lại một niềm hy vọng hoà bình cho hàng triệu người Việt Nam. Nhưng nhiều người tiên đoán trước rằng đây chỉ là một nền hòa bình giả tạo, để Mỹ phủi tay với Miền Nam, bắt tay với Tàu, tạo điều kiện cho Miền Bắc thôn tính Miền Nam chỉ hai năm sau đó.

50 năm nhìn lại một cột mốc lịch sử đáng buồn như vậy, hỏi ai còn nhớ điều gì vui? Xin thưa rằng vẫn có. Thí dụ như nghe lại 10 bài Bình Ca của nhạc sĩ Phạm Duy. Niềm hy vọng về hòa bình của muôn triệu người Việt được ghi lại thành những ca khúc tuyệt diệu, nhưng nhiều người yêu nhạc thuộc thế hệ trẻ có thể chưa biết đến.

Ngay cả những người yêu nhạc Phạm Duy từ trước 1975 cũng có thể khám phá ra một vài điều mới về Bình Ca. Là một chứng nhân lịch sử của Việt Nam trong thời hiện đại, hiểu thời cuộc, Phạm Duy không hy vọng hão huyền về nền hòa bình do hòa ước Paris đem lại vào đầu năm 1973. Trên trang mạng www.phamduy.com, ông viết: “…Bình Ca ra đời vào năm 1972, không xưng tụng nền hoà bình mà Hội Nghị Paris đạt được sau các vụ đi đêm và ký kết giữa các phe nhóm. Trong bình ca, không phải vì lý do có ký kết hoà bình mà nói tới chuyện tương lai, với sự trùng tu xứ xở, xây lại nhà máy, cầu cống v.v... Nó nói nhiều tới chuyện lấy lại sự bình thường, bình dị của dân tộc ta, bị mất đi sau mấy chục năm chiến tranh…”

Bình Ca là một chương khúc gồm 10 ca khúc, một hình thức được nhạc sĩ Phạm Duy thực hiện một cách xuất sắc với Đạo Ca, Tâm Ca trước đó. Bài Bình Ca 10, Ngày Sẽ Tới, được sáng tác mãi từ năm 1959, như một lời réo gọi hoà bình. Cùng với chín bài hát mới viết vào năm 1972, Bình Ca không hẳn là những bài hát nói tới hoà bình trên đất nước, mà là hoà bình trong lòng người. Tại sao vậy? Bởi vì chính Phạm Duy không tin là sẽ có hoà bình sau khi hòa ước ký kết! Điều này đã được chứng minh tại Miền Nam ngay trong những ngày cuối tháng Giêng 1973, khi mà tờ hòa ước Paris còn chưa ráo giấy mực.

Điều gì là nét độc đáo riêng của Bình Ca? Sự bình dị từ giai điệu đến ca từ. Thứ bình dị nhưng sâu sắc, đi thẳng vào lòng người thường thấy trong ca khúc Phạm Duy. Nó bình dị, chân thành, đầy cảm xúc rất thực của những người Việt luôn mơ về một ngày hòa bình.

Hãy cùng nghe và hát lại Bình Ca 1:


Trong một giai điệu đơn giản của thể nhạc cộng đồng, hát chung, bức họa về hòa bình được phát thảo tuyệt đẹp từ những điều hết sức đơn giản trong đời sống hằng ngày. Những con chim sau bao năm bị tiếng súng làm im tiếng nay hót trở lại. Những chú trâu già nay có thể thảnh thơi nhai cỏ, để nhường công việc đồng áng lại cho những chiếc máy cày, tượng trưng cho sự thịnh vượng của một đất nước VIệt Nam hòa bình:

Này em con chim lười, Nhiều năm chim đau phổi
Buổi sáng vắng tiếng chim cười vui
Này em con chim gầy, Chiều nay chim đứng dậy
Và nó hát líu lo thật dài
Cũng vì Hoà Bình đã về đây…
Này em con trâu già, Nhiều năm trâu vất vả
Cùng với bác xã nơi đồng quê
Này em con trâu già, Nằm chơi trâu nhai cỏ
Nhìn những chiếc máy đang cầy bừa.
Trâu đừng buồn vì máy cầy nghe…

Rồi hình ảnh trại giam cũ biến thành trường học… Rồi tiếng nổ khi sang xuân nay không phải là tiếng đạn bom, mà là tiếng pháo vui… Cảm động nhất là trong phiên khúc sau cùng, hình ảnh người lính già trở về, kể lại chuyện buồn vui thời chiến cho đám con trẻ:

…Này em anh đã già, Tuổi cao thiếu sức khoẻ
Dù sống với trái tim cằn khô
Này em anh đã về, Thì xin nghe anh kể
Chuyện mới, cũ, khóc vui tràn chề
Những chuyện hoà bình có người nghe…

Những hình ảnh giản dị mà xúc động về hòa bình, chỉ có thấy trong ca khúc Phạm Duy…
 
Sự mộc mạc của Bình Ca thể hiện rõ nhất trong Bình Ca 7, Lời Chào Bình Yên:


Người nghe có thể tưởng tượng ra hình ảnh một bác nông dân Miền Nam chất phác, vui vì hòa bình đến mà mặc khăn áo chỉnh tề, đứng ra đường cúi chào tất cả mọi người:

Mang giầy giớ tốt, mang khăn áo lành
Tôi chào đất nước tôi nay thái bình
Tôi cúi lưng xin chào anh, Tôi đứng lên, tôi chào em
 Tôi vói lên cao, chào Đức Tin
 Tôi chào sáng sớm, ban trưa, xế chiều
 Đêm về vẫn cứ chưa thôi cúi chào
 Tôi thấy trong tôi mừng reo, Tôi thấy chung quanh chào nhau
 Tôi cũng không quên chào đứa tôi đâu.
 Lời... lời chào bình yên… Lời... lời chào bình yên

Chào mừng một Việt Nam hòa bình, tại sao không thể mơ về một thế giới cũng hòa bình, nơi mà con người có thể chia sẻ cho nhau mọi thứ:

…Tôi chào trái đất xinh xinh giữa trời
Tôi chào thế giới chung nhau giống người
Chia với nhau dăm biển to, Dăm núi cao băng lạnh co
Hay mấy khu sa mạc nắng khô
Tôi chào ý nghĩ chia vui chúng mình
Chia buồn, sẽ sống chung nhau thái bình
Chia nước ngon, chia hột cơm, Chia áo khăn, chia mảnh tôn
Ta bắt tay nhau chào tiếng hân hoan.
Lời... lời chào bình yên... Lời... lời chào bình yên

Đó là giấc mơ lớn nhất của nhân loại, nhưng có lẽ sẽ không bao giờ trở thành sự thật. Nhưng đâu có ai ngăn được người nghệ sĩ mơ những điều tốt đẹp. Giống như Beethoven đã từng mơ và viết lên Hoan Khúc bất tử trong Bản Giao Hưởng Số 9 cách đây ba thế kỷ…

Sau những mùa xuân máu lửa, thù hận như Tết Mậu Thân, người Việt nay mơ đến một muà xuân hiền hòa, thanh bình. Bình Ca số 5, Xuân Hiền, với giai điệu rộn ràng mùa xuân là một mùa xuân cổ kính, với các từ Hán Việt như : Xuân Huy, Xuân Phong, Xuân Tiêu, Xuân Miên... để nói tới ánh sáng mùa Xuân, gió Xuân, đêm Xuân và giấc mộng đêm Xuân:

Xuân huy chan hoà trên khắp quê hương
Nắng chói gia đình huyền bí trăm con
Năm mươi người xuống, Năm mươi người lên
Đến lúc gặp chỗ hàn huyên
Xuân phong đem về tin tức vui chung
Gió mát cho lòng rộng rãi thong dong
Chung nhau cuộc sống, Chung nhau cuộc chết
Và quyết định cưới Xuân liền !
 À ạ ơi ! À ạ ơi !...
Và khi tâm người nhạc sĩ phơi phới với mùa xuân hòa bình, Phạm Duy hướng tới một mùa xuân vĩnh cữu trong lòng người; thứ mùa xuân trong cõi tâm mà tác giả từng nhắc đến trong Xuân Ca, Tâm Xuân, Xuân Hành:
…Xuân non, Xuân già, Xuân vẫn Xuân quen
Mới biết Xuân là cuộc tái sinh duyên
Thu, Đông, Hạ chết, Nhưng Xuân còn nguyên
Khuyến khích dòng máu về tim
Xuân không lên đường, Xuân đứng êm êm
Đứng mãi trong đời để cõng ta lên
Yêu Xuân đằm thắm, Yêu Xuân một phen
 Và sống cùng với Xuân hiền...
 À ạ ơi ! À ạ ơi !...
Bình Ca có đến hai ca khúc lấy tình yêu Thiên Chúa để nói lên tình yêu của nhân loại đối với hòa bình. Trong Bình ca 4, Xin Tình Yêu Giáng Sinh (thơ Trụ Vũ), hòa bình như tình yêu Giáng Sinh, đem lại cho quê hương Việt Nam sự hồi sinh:

     
Xin tình yêu giáng sinh, Trên quê hương cằn cỗi
Xin tình yêu giáng sinh, Trên địa cầu tăm tối
    Xin tình yêu giáng sinh, Trong lòng người hấp hối
    Xin tình yêu giáng sinh, Trên cuộc đời lầy lội…
    …Xin tình yêu giáng sinh, Cho một lần hoa nở
    Xin tình yêu giáng sinh, Cho một lần ngực thở
    Xin tình yêu giáng sinh, Cho một lần cửa mở
    Xin tình yêu giáng sinh, Tình yêu của chúng mình…
Đặc biệt hơn nữa, trong Bình Ca  9, Phạm Duy muốn được nhìn Chúa Giê Su như một con người của hoà bình, một con người có khả năng kiến tạo hòa bình bằng những hành động minh triết:

Nếu có ai giận dữ, Nếu có ai bất hoà
Nếu có ai lầm lỡ, Rồi sinh ra khắt khe
Sẽ đánh tôi một cái, Tát tôi nơi má này
Sẽ thấy tôi lặng lẽ, Chìa luôn ngay má kia !
Lạy Chúa ! Lạy Chúa tôi ! Nhân ái ban xuống đời
Lạy Chúa ! Lạy Chúa tôi ! Cho hiếu hoà khắp nơi...
Hay là cách Chúa đã bảo vệ người phụ nữ mang tội bán thân khỏi hình phạt bị ném đá trước công chúng:
…Đã chót mang tội gốc, Gái hư thân não nùng
Khóc giữa nơi quần chúng, Nằm cho viên đá quăng
Hỡi những ai ở đó! Sẽ đóng vai phán toà
Nếu tự thấy không tội lỗi, Thì quăng viên đá coi.
Lạy Chúa ! Lạy Chúa tôi ! Thương sót cho giống người
…Lạy Chúa ! Lạy Chúa tôi ! Không xét người ! Xét tôi !...
 
Như đã nói trên, bài Bình Ca 10, Ngày Sẽ Tới, viết từ 1959 được dùng để kết thúc Bình Ca. Có lẽ vì định mệnh, mà ca khúc cho hòa bình này lại viết ở tông thứ, với lời mở đầu và kết thúc giống như một tiếng kêu van hơn là một tiếng reo vui đón chào hòa bình: “…này hỡi, hỡi Hòa Bình…”


Này hỡi, hỡi Hoà Bình ! Này hỡi, hỡi Hoà Bình !
Ngày sẽ tới, biết bao nhiêu mừng vui
Mừng biết mấy chiến tranh đã tàn phai
Quê hương ta xưa nay đã đẹp rồi
Thêm xinh tươi, thêm vui, thêm tuyệt vời !
Này hỡi, hỡi Hoà Bình ! Này hỡi, hỡi Hoà Bình!...

Mà định mệnh của đất nước Việt Nam buồn thật! Nền hòa bình từ hòa ước 1973 chỉ là giả tạo. Và ngay cả khi đất nước ngưng tiếng súng vào năm 1975, quê hương vẫn đầy hận thù, bạo lực, vẫn chưa bao giờ thực sự tươi sáng cho đến tận nửa thế kỷ sau...

Vận mệnh của nhiều quốc gia trên thế giới cũng đầy đen tối trong những những ngày cuối năm 2023, Isarel-Palestine, Nga-Ukraine… Có lẽ nhân loại luôn có những dân tộc chỉ thèm khát một ngày hòa bình. Trong một thế giới chiến tranh, hận thù, những ca khúc như Bình Ca giúp nuôi dưỡng niềm hy vọng về một ngày mai tốt đẹp hơn. Cho dù ở Việt Nam, hay ở Ukraine, hay ở Palestine, và ngay cả ở Mỹ, chỉ có Chân- Thiện-Mỹ mới có thể đưa con người đến gần nhau hơn. Hòa Bình trong mỗi con người hy vọng sẽ góp phần xây dựng nên Hòa Bình cho một quốc gia, cho toàn thế giới.

Doãn Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.