Hôm nay,  

Ngày Xuân bàn chuyện rượu

09/02/202400:00:00(Xem: 1421)

Capture
hình minh họa
 
Thời hồng hoang ngu muội, không biết loài người đã biết đến rượu chưa? Song có lẽ cái thức uống gây đê mê, gây say, gây nghiện đã gắn bó với con người từ rất lâu lắm rồi. Và cũng từ rượu có biết bao huyền thoại được thêu dệt, hình thành, cùng những áng thơ văn bất hủ, lưu truyền trong cuộc sống con người, do vậy cái từ “rượu” luôn lung linh, huyền ảo trong chốn nhân sinh, tốn bao giấy mực và tâm trí của con người.
   
Trong sách Tây Du Ký, có tiệc rượu Bàn Đào của Tây Vương Mẫu bị Tôn Ngộ Không phá đám, thời Tam Quốc có tiệc rượu luận anh hùng của Tào Tháo, Lưu Bị. Sau công nguyên có tiệc rượu do Chúa Giê-su hóa phép thành… cùng bao tiệc rượu từ chốn bồng lai, tiên cảnh. Chốn hoàng cung mỹ nữ nghê thường, rồi những bậc anh hùng, hảo hán, cho đến những hạng bần dân khố rách áo ôm, v.v… đều có tổ chức uống rượu. Thời xưa, rượu chỉ là trái cây ủ lên men mà thành. Ngày nay, rượu xem ra là một thứ thức uống được chế biến qua nhiều công đoạn và bằng các công thức hóa chất cụ thể. Vì vậy, theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, định nghĩa rượu là: “Trong hóa học, rượu là một hợp chất hữu cơ chứa nhóm – OH.” Hoặc: “ Rượu là một nhóm loại đồ uống có chứa cồn. Tùy thuộc vào cách sản xuất và nguyên liệu mà rượu có các tên gọi khác nhau…”
   
Lý Bạch, người được mệnh danh Tiên Thơ và Tiên Tửu đã có những câu thơ: “Quân bất kiến Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai, / Bôn lưu đáo hải bất phục hồi! / Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát, / Triêu như thanh ti mộ thành tuyết. / Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, / Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!” (Tạm dịch là: Há chẳng thấy, nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống / Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về, / Lại chẳng thấy, thềm cao gương soi rầu tóc bạc / Sớm như tơ xanh, chiều tựa tuyết ? / Đời người đắc ý hãy vui tràn, / Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!” Còn Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm của ta thì: “Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp / Chờ xem phú quý tựa chiêm bao”, thì quả là phong thái tiên phong đạo cốt, ung dung tự tại, ngoài cõi nhân sinh.
   
Mỗi đất nước, mỗi dân tộc, đều có những loại rượu ngon nổi tiếng khác nhau: Pháp có Cham-Panh, Nga có Voklka, Nhật có Sa kê, Trung Quốc có Mao Đài. Chỉ tính riêng ở nước ta, từng vùng miền đã có những loại rượu ngon khác nhau: Sa Pa có rượu San Lùng táo mèo, Hà Nội có rượu Làng Vân, Đà Nẵng có Hồng Đào, Bình Định có Bàu Đá, Long An có Gò Đen, Bến Tre có Phú Lễ… Rượu ngon, người xưa thường hay gọi “ Bồ đào mỹ tửu”. Đời Thịnh Đường, Vương Hàn có bài “Lương Châu từ” ngợi ca rượu Bồ đào: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi / Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi / Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
   
Ngày xuân bên cạnh trăm hòa ngàn tía, mai, đào, lan, cúc… khoe hương và khoe sắc, ai mà chẳng muốn khề khà, nhâm nhi ly rượu ngon và luận chuyện rượu chè? Luận rượu và người uống rượu, người xưa phân chia ra thành các loại đẳng cấp: Tiên tửu, là uống rượu để thêm cảm hứng cho việc cầm, kỳ, thi, họa, là những bậc thánh nhân, nho gia, chính nhân quân tử, phong thái tiên phong đạo cốt, hay ít nhất cũng là người hiền, có đạo đức được mọi người ngưỡng mộ. Tục tửu, là hầu hết những anh hùng, hảo hán, hoặc thường nhân trong thiên hạ, loại này thường lẫn lộn, người có tài và cả những người bất tài, nên có người đề nghị thêm “Thần tửu”, trên Tục tửu và dưới Tiên tửu. Hạng người uống rượu để hại người, mưu cầu danh lợi hay hả hê, đắc chí với những việc làm xấu xa, ảnh hưởng an nguy của kẻ khác, người xưa xếp và loại Tà tửu (Quỷ tửu), cần phải tránh xa!
   

Trong các phim cổ trang, võ hiệp. Rượu uống phải bằng chén, bằng bình, bằng vò mới là hảo tửu, hảo hán, thể hiện khí phách hơn người, song thực tế, khó có người chỉ trong một loáng, tu, nốc đến cạn cả bình rượu hay vò rượu chứa vài ba lít? Người quân tử, bậc trí giả, chỉ uống rượu bằng ly nhỏ hoặc chung nhỏ, bởi lẽ ai cũng hiểu rằng: “Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy / Độ năm ba chén đã say nhè” (Nguyễn Khuyến), mà đã say rồi thì khó tránh khỏi cảnh: “Đời này thực tỉnh những ai đây? / Ai tỉnh cho ta chịu tiếng say.” (Trần Tế Xương) và: “Trót đà khuya sớm với ma men / Mặc kệ người chê, mặc kệ khen / Ngó lại hàng rào hương cúc lộn / Trông ra cửa sổ bóng trăng chen.” (Nguyễn Công Trứ), cho dù là thần nhân hay thi nhân, đều cũng có lúc: “Say đi em! Say đi em! / Say cho lơi lả ánh đèn / Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt / Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết! / Ta quá say rồi / Sắc ngả màu trôi / Gian phòng không đứng vững / Có ai ghì hư ảnh sát bờ môi.” (Vũ Hoàng Chương). Bởi lẽ rượu xưa là tinh túy của trời đất, là trái cây, hoa lá lên men mà thành. Ngày nay, như trên đã định nghĩa, rượu giống như một thứ dung dịch hóa chất, mà người ta đã có sáng kiến chế biến thêm vào đó rất nhiều thứ từ thực vật như rễ sâm, thân cành các loại cây, dạt mỏng phơi khô, hoa lá, thảo mộc… đến các loài động vật như nhau thai, bào thai, mật, xương cốt, máu, v.v… với ước mơ rượu sẽ làm tăng sức khỏe, tăng khả năng phòng the, và trường sinh bất lão. Biết, hoặc cố tình không biết, rượu nếu uống nhiều sẽ trở thành… thuốc độc, hủy hoại đạo đức, nhân cách của con người, cho dù, Ôma Khayam nhà khoa học, nhà thơ xứ Iran có lúc khẳng định: “Ai cũng biết là Khayam già yếu / Ai cũng biết là Khayam nghiện rượu / Nhưng chẳng ai hay chính nhờ rượu, Khayam / Mới thắng nổi cái buồn và cái yếu!”
   
Xứ Việt ta là xứ nhiệt đới, quanh năm nóng bức, không hợp với rượu như những quốc gia thuộc hàn đới, song lượng tiêu thụ rượu bia cũng thuộc loại mạnh trên thế giới. Và có lẽ, người uống rượu xứ ta, mới là những người có cách chế biến ra nhiều loại rượu nhất và những tiệc rượu từ sơn hào hải vị đến “mắt me chấm muối ớt” cũng thuộc hạng lâu và dai thời gian nhất. Mỗi vùng miền đều có cách uống rượu khác nhau, từ mỗi người mỗi ly rượu ở miền Bắc, miền Trung, đến chỉ một ly rượu xoay vòng, ở miền Nam, với nhiều “biến cách” khác lạ với những cung bậc tình cảm khác nhau mà có tăng 1, tăng 2, rồi tăng 3, gây cho người uống rượu những hệ lụy khác nhau, từ ảnh hưởng đến sức khỏe bản thân, đến ảnh hưởng đến an ninh, trật tự rồi an toàn giao thông, v.v… Có khi còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến công ăn việc làm, hạnh phúc gia đình, đến lúc này nhiều người mới nhận thức ra rằng “con ma men” cũng rất là hiểm độc với chúng sinh đệ tử lưu linh…
   
Còn nhớ những tin tức sốt dẻo cuối năm nào đó, về loại rượu “29 Hà Nội” đã làm nhiều người ngộ độc chết, giám đốc sản xuất ra loại “tử tửu” này đã bị bắt giam. Mới đây nhất, vào cuối năm 2023, câu chuyện “tăng cường”, “ siết chặt”, “cồn lái” làm nóng mạng xã hội với nhiều ý kiến trái ngược nhau rất ư là “men rượu”. Rất nhiều những người thích rượu đâm ra dè dặt, có người muốn bỏ rượu, cai rượu, song “Những lúc say sưa cũng muốn chừa / Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa” (Nguyễn Khuyến), và cuối cùng giống như Trần Tế Xương là: “ Một trà, một rượu, một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó quấy ta / Chừa được thứ nào hay thứ ấy / Họa chăng chừa rượu với chừa trà”.
   
Rượu Hoàng Mai, rượu Hồng Đào, đã ứng với sắc vàng nhuần nhị của mai, dịu nhẹ, nồng ấm của hoa đào, trong tiết trời xuân phương Nam hanh hao, khô nóng, làm Tiên tửu, Thần tửu, uống vài chung rượu nhỏ cùng với người thân, bạn bè, âu cũng là điều thú vị và ý vị.
 
– Trần Hoàng Vy
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.