Hôm nay,  

Tình yêu và thân phận con người

25/02/202406:37:00(Xem: 1805)
Tạp ghi

couple-in-love

Ai đó đã từng nói chúng ta có thể chỉ mất một ngày, một tháng, một năm, để yêu một người. Nhưng chúng ta đã phải mất cả một đời để có thể quên một người. Tinh yêu là những gì thiêng liêng không thể thiếu vắng trong cuộc đời. Tinh yêu dù đau khổ hay hạnh phúc luôn là lý tưởng của cuộc sống. Sống với niềm đau khổ vì tình yêu vẫn còn hơn sống với tâm hồn trống rỗng. Thảm trạng của tinh yêu không phải buồn vui, giận hờn, ghen tuông, mà là sự dửng dưng khi đứng trước người yêu đã từng phụ mình. Dù xa nhau muôn trùng, nhà thơ, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn vẫn hy vọng ngày nào đó người yêu sẽ trở lại như thủy triều dâng xóa đi những ngày buồn:
 
Tinh ngỡ đã quên đi
Như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xâm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô giạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng
Xóa một ngày đìu hiu…” (Tình Nhớ-TCS)
 
Trong sâu thẳm của tâm hồn, không có tình yêu đơn phương, luôn tình yêu được đáp trả với thái độ tích cực hay thầm kín mà chính người yêu không hay. Rồi đến khi thảm trạng của tình yêu xảy ra mới biết mình đã yêu. Giọt lệ ăn năn của Mỵ Nương đã an ủi tâm hồn đau khổ của kẻ xấu số Trương Chi.
    Với tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ Tản Đà khi thấy chiếc lá lìa cành ông lại liên tưởng đến cảnh chia tay:
 
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng...”
 
Hờ hững phụ nhau là bi kịch của tình yêu. Trong thực tế ai cũng bám lấy tình yêu, lý tưởng để sống, dù cho cuộc tình nhuộm màu cay đắng. Khi yêu quên cả không gian và thời gian, quên cả sự cách biệt tuổi tác. Không có tiêu chí nào dành cho tình yêu ngoài lý do của trái tim. Lá Diêu Bông chỉ là sự huyễn hoặc mà Hoàng Cầm đã mặc khải cho nhân vật của ông:
 
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay tao gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông...
Mùa Đông năm sau Em tiim thấy lá
Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông...
 
Và mãi đến lúc
 
Chị ba con, em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn...
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hỡi
Ôi Diêu Bông...
 
Và cứ thế tình yêu mãi mãi là vô tận... Phải chăng tình yêu tồn tại trong lòng như một tiềm thức, bỗng nhiên môt cơ hội hay một ngoại cảnh nào đó đã đánh thức tình yêu. Một thiếu phụ trẻ đẹp có chồng đi chinh chiến miền xa, rồi một ngày nào đó nàng chợt thấy mùa xuân trở về trên từng sắc lá của hàng dương liễu xanh xui nàng nhớ chồng.
 
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”.
 
Đó là nội dung của bài thơ “Khuê Oán” của Vương Xương Linh thời Thịnh Đường... Và mười hai thế kỷ sau, Lưu Trong Lư qua bài thơ Tiếng Thu cho chúng ta thấy cảnh sắc lãng mạn, hữu tình của mùa Thu đã dấy lên lòng nhớ thương chồng của người chinh phụ
 
Em không nghe mùa Thu
 dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
hình ảnh kẻ chinh phu
trong lòng người cô phụ?
 
Từ Vương Xương Linh  đến Lưu Trọng Lư qua một chiều dài lịch sử, tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho thi nhân, hiền sĩ... Tình yêu không là chiếm đoạt, coi người yêu như là của riêng mình. Yêu là sự hy sinh, sự cống hiến tận cùng hầu mang lại hạnh phúc cho người mình yêu.
     Con người là chủ thể của tình yêu. Nhưng cái chết đã biến cuộc sống con người trở thành hữu hạn, trong khi tinh yêu thì vô hạn. Đó là mối băn khoăn của Du Tử Lê trong bài thơ “Khúc Thy Du”:
 
Hãy nói về cuộc đời,
Khi tôi không còn nữa
Sẽ mang được những gì
Về bên kia thế giới
Thy ơi và Thy ơi”
 
Không còn tiếng kêu thương thảm thiết nào cho bằng tiếng kêu réo gọi tình yêu trong cơn hấp hối của con người…
 

Đào Như

Feb 23-2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.