Hôm nay,  

Tổ Bồ Đề Đạt Ma Bodhidharma

3/29/202400:00:00(View: 1715)

bo de dat ma
Bồ-đề Đạt-ma.
 
Chùa Linh Sơn ở Joinville Le Pont của chúng tôi, bên dưới chánh điện là một phòng sinh hoạt Phật sự khá khang trang và rộng rãi dành cho các em oanh vũ gia đình Phật tử Quảng Đức. Các em tới học Phật pháp, tập hát, học giáo lý và cùng làm văn nghệ.
  
Trên tường chính diện có treo một tấm tranh lớn như bằng hai cái chiếu, chiếm gần hết một phần tường. Trong tranh là cảnh biển trời bao la xanh xanh vây quanh, tọa lạc ở gần giữa là hình tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giầy trên tích trượng vắt vẻo trên vai. Ngài đang thong dong du hành vô ngại đầy an bình.
  
Tất cả vẻ hài hòa tươi sáng của người và cảnh như lôi kéo sự chú ý khá đặc biệt của các oanh vũ Phật tử. Ngoài giờ học tập, chúng luôn tụ tập ở trước hình tổ và chỉ trỏ đố nhau, xem tổ đang đi đâu?
  
Tổ đang đi hè ở biển đó.
  
Tổ làm mất đâu một chiếc giầy rồi?
  
Tổ đang đi về Ấn Độ đó… có một lần thầy đã giảng như vậy.
  
Ôi, sai bét, đi về Ấn Độ thì đi máy bay chớ đi bộ được sao?
  
Ơ… tổ đi với pháp thần thông này!
  
Đó là những câu chuyện hồn nhiên xung quanh hình ảnh tổ quảy giầy trên tích trượng đi thong dong trên mặt nước.
  
Tổ là ai?
  
Thưa, đó là đức Bồ Đề Đạt Ma, Bodhidharma, tổ thứ 28, sau tổ Maha Ca Diếp. Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương Vũ Đế (502-547). Tổ Bồ Đề Đạt Ma tiếp xúc với vua Vũ Đế, thấy vua chỉ hào hứng xây chùa mà không mấy chuyên tâm đi vào tâm đạo. Mặc dù việc xây chùa thời đó cũng giúp đạo Phật phát triển rực rỡ ở Trung Hoa (theo thầy Thích Quảng Độ giảng dậy).
  
Một hôm Lương Vũ Đế hỏi tổ:
  
“Trẫm xây cất rất nhiều chùa để hoằng dương chính pháp, vậy trẫm có công đức không?”
  
Tổ trả lời:
  
“Không, ngài không có tí nào.”
  
Vua hỏi tại sao lại vậy? Tổ giải thích rõ ràng:
  
“Công đức tự tánh sanh ra, đến vô lượng, còn công đức của vua, có mưu đồ, tức là vô lậu, rồi sẽ hết.
  
Quả là đúng vậy vì vua Vũ Đế có mưu đồ khoe khoang nên không ngộ được đạo. Tổ Bồ Đề Đạt Ma bỏ đi tới nước Ngụy, ngài ngồi nhìn vô vách núi tu thiền, quán chiếu sự vật, quán chiếu tâm bình lặng.
  
Xẩy tới có ngài Thần Quang đi tới, nhìn, gặp và biết đây là một vị tổ sư. Ngài Thần Quang tới gần chỗ tổ ngồi thiền và quán chiếu. Ngài Thần Quang quỳ trên tuyết lạnh suốt nửa ngày, tuyết rơi dầy và ngập tới gối. Tổ mới quay lại hỏi ngài Thần Quang:
  
“Ông ngồi đó làm chi?”
  
“Con muốn hỏi ngài về giáo pháp của Như Lai.”
  

“Giáo pháp của Như Lai ngộ và lưu truyền đã lâu đời, ông quỳ ở đây vài tiếng đống hồ làm sao thấm được giáo pháp Như Lai?”
  
Ngài Thần Quang liền vô chùa mượn được con dao và chặt phăng một cánh tay mình để chứng tỏ quyết tâm cầu học. Việc từ bỏ cánh tay là bầy tỏ tâm ý từ bỏ sự nắm bắt, vơ vào phần mình các của cải, các sự việc thế gian…
  
Thầy Thích Pháp Hòa mới khơi lại và giảng dậy sự việc của ngài Thần Quang cho Phật tử Việt Nam ở Thái Lan ngày 8-03-2024 mới đây. Thầy giảng việc chặt bỏ một cánh tay là ẩn dụ dứt khoát tách rời những phiền muộn xung quanh trong cuộc sống hằng ngày.
  
Trở lại với việc ngài Thần Quang khi xưa. Ngài được tổ dậy là:
  
“Pháp ấn Như Lai tự trong thâm tâm là tiến tới chỗ không.”
  
Sau thuyết giảng, tổ truyền giáo pháp cho ngài Thần Quang, gồm: Ấn, Y, Bát, một bộ kinh lăng già, một bài kệ. Ngài Thần Quang tức là tổ Huệ Khả.
  
Ít lâu sau, tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch ở Trung Hoa. Sau này, tổ Huệ Khả, tức là ngài Thần Quang chợt một lần trông thấy thầy mình đi trên biển, vai quảy tích trượng có đeo một chiếc giầy, ngài đi thong dong trong tĩnh lặng yên ổn. Ngài Huệ Khả mới hỏi tổ đi đâu, tổ trả lời:
  
“Ta đi về Ấn Độ!”
  
Ngài Huệ Khả về tâu sự việc với vua. Vua cho mở quan tài của tổ và người ta không còn thấy tổ đâu nữa mà chỉ còn một chiếc giầy.
  
Đời sau, người ta lấy hình ảnh đặc trưng này của tổ mà tạc tượng hay họa hình ngài ở nhà tổ của các chùa, để trân trọng tiêu biểu cho phái thiền tông do ngài sáng lập.
  
Người đời sau cũng giải thích là qua quá trình thiền quán giải thoát của tổ, tổ đã vượt qua, vượt thoát những cảm nhận thường tình của thế gian.
  
Thế gian cho là giầy dép phải luôn luôn có đôi. Nhưng với người ở ngoài cảm nhận, thì 2 hay 1 là không quan trọng, không lưu ý… không để tâm.
  
Cũng trong bát nhã tâm kinh, có viết:
  
“Sắc tức thị không / Không tức thị sắc”.
  
Trong đạo Phật, đây là một nhận xét thẳng thắn, đúng không gì bằng. Khi tâm đạo vượt lên, không cần suy nghĩ, vì thực chất các pháp không là một thực thể, một tập hợp không phân biệt, không thêm không bớt, không đủ không thiếu… Khi hành giả đã vượt thoát ra ngoài thói lề thế gian, cũng là lúc hành giả đến với đại Xả và đại Bi. Điều cảm nhận này thoát đến thật gần với ý niệm “Vinh danh thiên chúa trên trời, bằng an dưới thế cho người thiện tâm.”
 
– Chúc Thanh
Paris, mars avril 2024
 
(Theo Trang Nghiêm Tịnh Độ A Di Đà do Trúc Thiên lược dịch). 
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
Tình hình thế giới hình như đang rối lung tung, náo loạn như từ khi tổng thống Mỹ nhậm chức nhiệm kỳ II. Ông ở ngôi mới được hơn 100 ngày chút xíu, mà nhiều rắc rối quá, đối ngoại thì như mỗi ngày ông đưa ra những quyết định trừng phạt thế giới về kinh tế và thương mại bằng cách tăng thuế vào các hàng hóa của bất kỳ quốc gia nào nhập khẩu và Hoa Kỳ từ 10 đế 50% và hơn thế nữa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.