Vĩnh biệt Trần Hoài Thư

01/06/202410:52:00(Xem: 2375)

 TRAN HOAI THU


 

Nhà văn Trần Hoài Thư  chủ nhân của Thư Ấn Quán, người Phục Hồi Di Sản Văn Học Miền Nam 1954-1975 đã qua đời ngày 27-5-2024, đúng 1 tháng sau khi hiền thê của ông, bà  Nguyễn Ngọc Yến mất ngày 27-4-2024.
 
Kệ sách trong buồng ngủ của tôi có:
 
Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến
263 Nhà Thơ miền Nam sáng tác cho Chiến Tranh
Tập I    856 Trang
Tập II   741 Trang
Tổng cộng 1600 Trang Giấy
 
Thơ Tự Do Miền Nam                   660 Trang
 
Tuyển Tập Thơ- Ô Cửa –
Toàn Tập của Trần Hoài Thư 380 Trang. Tất cả, với chữ ký đề tặng của Tác Giả.
 
Khi nhận được Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến tôi thật sự bàng hoàng về số Thơ viết ra trong chiến tranh của miền Nam sao có thể nhiều đến như thế. Mỗi người Lính, mỗi thân nhân của Lính hình như đều là thi sĩ cả.
 
Nhờ có cuốn Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến mà tôi biết được bài Thơ U Minh của tác giả Nguyễn Tiến Cung (Phạm Duy phổ nhạc) Một bài Thơ về cuộc chiến, nhưng không có máu chảy, không có bom đạn, chỉ có hình ảnh mấy cây tràm gày như dáng người con gái, và người lính với cây súng ướt nòng. Bài thơ mà bất cứ lúc nào đọc lại hay nghe ai đó hát cũng làm tôi chảy nước mắt.
 
Trần Hoài Thư và Hiền Thê đã để lại một công trình to tát: bảo tồn di sản văn học (với đúng ý nghĩa nhất) cho thế hệ Việt Nam lưu vong sau này hiểu được thế nào là chiến tranh mà người Việt của cả hai miền cùng gánh chịu.
Đây là một công trình quý báu một đóng góp giá trị cho những thế hệ con cháu Việt Nam Cộng Hòa sau này khi muốn tìm hiểu về văn học của các bậc cha ông trong thời chiến.

Trần Mộng Tú                                                               5-27-2024

Dưới đây là bài Thơ Trần Mộng Tú viết tặng Trần Hoài Thư khi nhận được những tập sách tác giả gửi tặng.
 
 
 
                                          ĐỌC “THƠ MIỀN NAM
                                      TRONG THỜI CHIẾN” (*)
 
                                                Gửi Trần Hoài Thư
                               
 Em úp mặt vào trang giấy trắng
 đọc những bài thơ viết giữa chiến tranh
 em thương những tình yêu khép mắt
 thương những nỗi buồn vàng ngón tay anh
 
 Mỗi trận đánh mang một tên riêng
 nhưng nỗi buồn không tên gọi
 anh giơ mãi tay ra
 không với được hòa bình
 vuốt mặt thấy đời mình như rừng đang cháy
 những tàn tro
 thương tích bật thành thơ
 
 Bây giờ tìm anh biết tìm ở đâu
 trên đỉnh Trường Sơn
 hay vũng lầy Đồng Tháp
 mặt trận đã yên thời gian mục nát
 có ai vừa cúi nhặt
 được câu thơ
 
Giải khăn tang mấy mươi năm vàng ố
mấy mươi năm mà vết sẹo còn mưng
mở những trang thơ
rào rào tiếng đạn
bay vào thành phố
như tiếng vỗ cánh của bầy chim ưng
 
Thơ cắm súng trên mộ phần
người lính trẻ
giầy saut, nón sắt xếp thẳng hàng
thơ vẽ thêm người con gái
hai tay úp mặt
vạt áo nhầu tóc rối dưới khăn tang
 
                       Mấy mươi năm bao nhiêu hồn rất mới
đã nhăn nheo theo cuộc chiến hoang tàn
bao đôi mắt sáng ngời vùi dưới đất
trái tim nguyên còn rất đỗi nồng nàn
 
Mấy mươi năm anh có đời lưu lạc
ở nơi nào cũng cúi xuống nỗi đau
                       mấy mươi năm em sống đời ngơ ngác
                       thơ nhặt từng câu
                       vẫn thấy xót thương nhau
 
                       Ôi cuộc chiến đã đi qua
                       chúng ta mất hết
tình yêu
tuổi trẻ
và những ước mơ
thơ giúp em giữ mãi một điều gì thiêng liêng
không mất được
nhưng cũng không tìm lại được bao giờ.
 
                       Tháng 1/ 2008
 Khi nhận được: Thơ miền Nam trong thời chiến, Thư Ấn Quán sưu tập và xuất bản, chủ biên: nhà văn Trần Hoài Thư và bằng hữu.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ từ thôi ba của sắp nhỏ ơi! | Vì ngoài sông phù sa đang hoài thai. | Ôi sự dịu dàng | Có thể biển sư tử thành nai. | Thiếu sự dịu dàng | Con nai trong nhà ta có khi thành sư tử.
có lẽ nơi này gỗ đã mục | lâm chung một thân cây
Ở Gaza | người già, thai phụ và trẻ em | Họ…được mời như thế | ngồi chung trong một bàn tiệc chiến tranh
không phải vì thiếu vắng điều gì | mà là có quá nhiều thứ từng là cần thiết | giờ không là gì cả
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Chẳng ai biết tận, thế giới bên ngoài bí mật. Thế giới bên trong càng bí mật hơn. Thế giới trí óc vô cùng khó hiểu. Thế giới con tim càng nhiều chuyện bất ngờ. Chẳng ai biết được chuyện gì sắp xảy ra, sao lại ngạc nhiên khi chuyện xảy đến?
trốn nắng, những con bồ câu về | đậu trên bao lơn, sự thanh thản không làm sao hiểu nổi | bay đi, thứ hoà bình giả dối | em xua tay và tức thì xấu hổ về sự ngu ngốc của mình
Yêu được hồi nào cứ yêu. | Một hôm tự nhiên: hết. | Như còi cứu thương: tắt, | Như sấm sét: câm | Gió sẽ thối tất cả biệt tích.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.