Hôm nay,  

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu Đối Chiếu Với Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch

31/08/202413:27:00(Xem: 2004)
hoang hac lau

Hoàng Hạc lầu-biểu tượng văn hóa lich sử Trung Quốc


                              

                                                                                                                                  

                                                                                                                                                                   Thân gửi người bạn vong niên

                                                                                                                                                                   Scott Nguyễn

 


Theo Chương Bội Hoàn và Lạc Ngọc Minh tác giả của bộ Văn Học Sử Trung Quốc, Hoàng Hạc lầu là một biểu tượng văn hóa lich sử lâu đời của Trung Quốc, một ngọn tháp được xây dưng trên vưc đá Hoàng Hạc của núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc huyện Vũ Xương, thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc vào năm 223 Tây Lịch dưới thời nhà Ngô ( Tam Quốc), có mục đích để quan sát quân tình và theo dõi thuyền bè qua lại trong vùng. Đến nay suốt trên 1800 năm  đã có 12 lần bị thiêu hủy,12 lần xây cất lại, mỗi lần lại cao hơn, nhiều tầng hơn.

 

Hòang Hạc lầu vừa hùng vĩ vừa diễm lệ từ xưa đã là điểm đến của các tao nhân mặc khách, dĩ nhiên có những bài thơ nổi tiếng gắng liền với tên Hoàng Hạc lầu. Trong vô vàn của những bài thơ đó, bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được coi như là bài thơ hay hơn tất cả cho đến nỗi Lý Bạch đã phải than rằng:

 

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thư tại thượng đầu

(Thấy cảnh đep trước mắt mà không làm nên đươc môt bài thơ, bởi vì trước ta dã có Thôi Hiệu đã làm nên một bài thơ quá hay).

 

HOÀNG HẠC LÂU-   

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

 

DỊCH:

Người xưa cưỡi Hạc Vàng bay đi

Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng bay mất không trở lại

Ngàn năm mây trắng vẫn hững hờ bay

Dòng sông trong vắt soi bóng cây Hán Dương

Cỏ thơm xanh rì trên bãi Anh Vũ

Hoàng hôn Xuống, quê hương đâu?

Khói sóng trên sông khiến lòng ta buồn bã

 

Nói là nói vậy, trong lòng Lý Bạch luôn có một thôi thúc, ông phải viết ra môt bài thơ về lầu Hoàng Hạc khác với bài Hoàng Hac Lâu của Thôi Hiệu. Do đó Lý Bach đã viết nên bài thơ:

 

PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI

Phượng Hoàng Đài thượng phượng hoàng du

Phượng khứ đài không giang tự lưu

Ngô cung hoa thảo mai u kính

Tấn đại y quan thành cổ khưu

Tam sơn bác lạc thanh thiên ngoại

Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu

Tổng vụ phù vân năng bế nhật

Trường An bất kiến sử nhân sầu.

 

DỊCH:

Phương Hoàng rong chơi Phượng Hoàng đài

Phượng đi, đài trống, sông chảy hoài

Cung Ngô chìm khuất trên đường vắng

Áo mão Tấn Triều  đồi cổ này

Ba non phân nữa tận trời xanh

Bach lộ còn kia nắng chảy quanh

Vì bởi mây trời che mặt nhật

Người buồn không thấy Tràng An thành (*)

 

Điều hiển nhiên ta có thể cho rằng Lý Bach có thể vịn vào bài Hoàng Hac Lâu của Thôi Hiệu để phóng tác ra bài thơ mới, nếu chỉ nhìn vào cách lập ý, dùng từ. Nhưng khi đi sâu vào nội dung của hai bài thơ thì dụng ý của hai tác giả đều hoàn toàn khác nhau, măc dầu cả hai bài thơ đều bắt đàu bài thơ với ý niệm hoài cổ.

Nhưng  cách hoài cổ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu, chỉ là cái nuối tiếc thời gian trôi đi và không bao giờ trở lại và mối sầu của ông cũng chỉ là mối sầu của kẻ ly hương.

Trong bài Phượng Hoàng Đài thì trái lại, Lý Bạch từ niềm hoài cổ đã nhận ra sư vô thường của cõi nhân sinh và từ đó hướng tầm nhìn và chiêm nghiệm về cõi vĩnh hằng. Phượng Hoàng dù đã bay đi để lại Phượng Hoàng đài trống không ở đây.  Hai triều đình Tôn Ngô và Đông Tấn đã trở thành quá khứ, nhưng bầu trời vẫn xanh. Sông Trường Giang vẫn tiếp tục chảy mãi không ngừng. Do đó thơ của họ Lý cũng là mối sầu nhưng không phải là lòng nhớ quê, mà là nỗi đau trước cuộc sống và đời người và mọi triều đại đều vô thường. Hưng thịnh như nhà Đường cũng có thời suy thoái-vua Đường Minh Hoàng say mê nhan sắc Dương Quí Phi, xao lãng viêc triều chính-gian thần nhiễu loạn triều đình. Và sự bất lực của bản thân mình trước sự thịnh suy của đất nước. Chính Lý Bạch cũng bị đẩy ra khỏi triều đình và buộc phải ra khỏi Tràng An. Trên đường di tản về phía Nam, khi đến Kim Lăng ông đã đến thăm Phượng Hoàng Đài và viết nên bài thơ Phượng Hoàng Đài (còn gọi là Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài).  Và tất cả nỗi lòng của ông  được ông gửi vào hai câu kết:

 

Tổng vị phù nhân năng bế nhật

Tràng An bất kiến,sử nhân sầu

(vì kẻ gian thần che mắt nhà vua-ta phải xa Tràng An và nhớ thương vô hạng)

 

Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý  là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau. Do đó bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu và bài thơ Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch  mãi mãi được các tao nhân mặc khách qua hơn 1800 năm vẫn tiếp tục tận tình chia sẻ và trân trọng.../.  

 

Đào Như

Môt Chiều cuối Hạ-Giáp Thìn

August-30-2024

 

GHI CHÚ

(*)- Về tra cứu đều dựa trên những sử liệu văn học của bộ  VĂN HỌC SỬ -TRUNG QUÔC

Của hai tác giả CHƯƠNG BÔI HOÀN và LẠC NGỌC MINH.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.