Hôm nay,  

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu Đối Chiếu Với Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch

31/08/202413:27:00(Xem: 2214)
hoang hac lau

Hoàng Hạc lầu-biểu tượng văn hóa lich sử Trung Quốc


                              

                                                                                                                                  

                                                                                                                                                                   Thân gửi người bạn vong niên

                                                                                                                                                                   Scott Nguyễn

 


Theo Chương Bội Hoàn và Lạc Ngọc Minh tác giả của bộ Văn Học Sử Trung Quốc, Hoàng Hạc lầu là một biểu tượng văn hóa lich sử lâu đời của Trung Quốc, một ngọn tháp được xây dưng trên vưc đá Hoàng Hạc của núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc huyện Vũ Xương, thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc vào năm 223 Tây Lịch dưới thời nhà Ngô ( Tam Quốc), có mục đích để quan sát quân tình và theo dõi thuyền bè qua lại trong vùng. Đến nay suốt trên 1800 năm  đã có 12 lần bị thiêu hủy,12 lần xây cất lại, mỗi lần lại cao hơn, nhiều tầng hơn.

 

Hòang Hạc lầu vừa hùng vĩ vừa diễm lệ từ xưa đã là điểm đến của các tao nhân mặc khách, dĩ nhiên có những bài thơ nổi tiếng gắng liền với tên Hoàng Hạc lầu. Trong vô vàn của những bài thơ đó, bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được coi như là bài thơ hay hơn tất cả cho đến nỗi Lý Bạch đã phải than rằng:

 

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thư tại thượng đầu

(Thấy cảnh đep trước mắt mà không làm nên đươc môt bài thơ, bởi vì trước ta dã có Thôi Hiệu đã làm nên một bài thơ quá hay).

 

HOÀNG HẠC LÂU-   

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

 

DỊCH:

Người xưa cưỡi Hạc Vàng bay đi

Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng bay mất không trở lại

Ngàn năm mây trắng vẫn hững hờ bay

Dòng sông trong vắt soi bóng cây Hán Dương

Cỏ thơm xanh rì trên bãi Anh Vũ

Hoàng hôn Xuống, quê hương đâu?

Khói sóng trên sông khiến lòng ta buồn bã

 

Nói là nói vậy, trong lòng Lý Bạch luôn có một thôi thúc, ông phải viết ra môt bài thơ về lầu Hoàng Hạc khác với bài Hoàng Hac Lâu của Thôi Hiệu. Do đó Lý Bach đã viết nên bài thơ:

 

PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI

Phượng Hoàng Đài thượng phượng hoàng du

Phượng khứ đài không giang tự lưu

Ngô cung hoa thảo mai u kính

Tấn đại y quan thành cổ khưu

Tam sơn bác lạc thanh thiên ngoại

Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu

Tổng vụ phù vân năng bế nhật

Trường An bất kiến sử nhân sầu.

 

DỊCH:

Phương Hoàng rong chơi Phượng Hoàng đài

Phượng đi, đài trống, sông chảy hoài

Cung Ngô chìm khuất trên đường vắng

Áo mão Tấn Triều  đồi cổ này

Ba non phân nữa tận trời xanh

Bach lộ còn kia nắng chảy quanh

Vì bởi mây trời che mặt nhật

Người buồn không thấy Tràng An thành (*)

 

Điều hiển nhiên ta có thể cho rằng Lý Bach có thể vịn vào bài Hoàng Hac Lâu của Thôi Hiệu để phóng tác ra bài thơ mới, nếu chỉ nhìn vào cách lập ý, dùng từ. Nhưng khi đi sâu vào nội dung của hai bài thơ thì dụng ý của hai tác giả đều hoàn toàn khác nhau, măc dầu cả hai bài thơ đều bắt đàu bài thơ với ý niệm hoài cổ.

Nhưng  cách hoài cổ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu, chỉ là cái nuối tiếc thời gian trôi đi và không bao giờ trở lại và mối sầu của ông cũng chỉ là mối sầu của kẻ ly hương.

Trong bài Phượng Hoàng Đài thì trái lại, Lý Bạch từ niềm hoài cổ đã nhận ra sư vô thường của cõi nhân sinh và từ đó hướng tầm nhìn và chiêm nghiệm về cõi vĩnh hằng. Phượng Hoàng dù đã bay đi để lại Phượng Hoàng đài trống không ở đây.  Hai triều đình Tôn Ngô và Đông Tấn đã trở thành quá khứ, nhưng bầu trời vẫn xanh. Sông Trường Giang vẫn tiếp tục chảy mãi không ngừng. Do đó thơ của họ Lý cũng là mối sầu nhưng không phải là lòng nhớ quê, mà là nỗi đau trước cuộc sống và đời người và mọi triều đại đều vô thường. Hưng thịnh như nhà Đường cũng có thời suy thoái-vua Đường Minh Hoàng say mê nhan sắc Dương Quí Phi, xao lãng viêc triều chính-gian thần nhiễu loạn triều đình. Và sự bất lực của bản thân mình trước sự thịnh suy của đất nước. Chính Lý Bạch cũng bị đẩy ra khỏi triều đình và buộc phải ra khỏi Tràng An. Trên đường di tản về phía Nam, khi đến Kim Lăng ông đã đến thăm Phượng Hoàng Đài và viết nên bài thơ Phượng Hoàng Đài (còn gọi là Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài).  Và tất cả nỗi lòng của ông  được ông gửi vào hai câu kết:

 

Tổng vị phù nhân năng bế nhật

Tràng An bất kiến,sử nhân sầu

(vì kẻ gian thần che mắt nhà vua-ta phải xa Tràng An và nhớ thương vô hạng)

 

Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý  là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau. Do đó bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu và bài thơ Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch  mãi mãi được các tao nhân mặc khách qua hơn 1800 năm vẫn tiếp tục tận tình chia sẻ và trân trọng.../.  

 

Đào Như

Môt Chiều cuối Hạ-Giáp Thìn

August-30-2024

 

GHI CHÚ

(*)- Về tra cứu đều dựa trên những sử liệu văn học của bộ  VĂN HỌC SỬ -TRUNG QUÔC

Của hai tác giả CHƯƠNG BÔI HOÀN và LẠC NGỌC MINH.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Khoảng thời gian bắt đầu vào đại học, ngoài những lúc phải học những bài sinh hóa khô khan, tôi tìm đến văn chương tiếng Việt qua các tạp chí như Văn Học, Văn, và Hợp Lưu. Khác với Văn và Văn Học vốn mang không khí “cổ điển”, Hợp Lưu, với chủ biên sáng lập là nhà văn Khánh Trường, bung mở một cánh cửa đón nhiều cây bút mang phong cách táo bạo, thể nghiệm, trong cả hai lãnh vực thơ và văn, đến từ trong và ngoài Việt Nam. Gặp nhiều chống đối vào những năm đầu vì có sự góp mặt của những nhà văn trong nước, nhưng Khánh Trường vẫn bất chấp, tiếp tục xây dựng Hợp Lưu thành một diễn đàn văn chương mở rộng vì “các thể chế chính trị rồi sẽ qua đi, nhưng văn học nghệ thuật sẽ còn tồn tại dài lâu, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là phải tìm cách bảo tồn, xiển dương những giá trị kia, không phân biệt phe phái, chính kiến.” (trả lời phỏng vấn của Đỗ Lê Anh Đào trên damau.org, ngày 22 tháng 9, 2006).
Khu Nursing Home gồm bốn dãy nhà quây thành hình vuông. Mỗi dãy có tám phòng, cửa mở ra chái hiên rộng, lát gạch hoa có tam cấp dẫn vào mảnh vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới: mít, xoài, nhãn lồng, xen kẽ những loại cây và hoa đậm chất đông phương: tùng, liễu, mẫu đơn, phật quả, thiết mộc lan và hồ rộng, thiết kế mỹ thuật. Những con thác từ các mỏm đá cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, đàn cá koi nhởn nhơ quanh các bụi thủy trúc, rải rác nhiều khóm liễu vươn ra từ bờ, sà thấp chạm mặt nước. Mùa hè, sáng, chiều, luôn có các lão niên ngồi trên những băng ghế đá, dưới các gốc cây phủ kín bóng mát bởi những tàn lá rộng, hóng gió, tán gẫu hoặc bày trò vui.
Năm 1988, tại Nam Cali có cuộc bầu cử ban chấp hành lâm thời của Văn bút Việt nam Hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến làm chủ tịch. Sau đó có các ban ngành này kia truyền thông, báo chí gì đó và tôi được chỉ định làm việc với Khánh Trường. Đó là lần đầu tôi gặp anh, 1 người điệu đà, mặc đồ trắng và quần có giây lưng, tuy dáng dấp khoan thai nhưng có cái gì đó dục giã giấu bên trong và nét bất bình loáng thoáng ở hàng râu mép.
Gần đây tôi tới thăm Khánh Trường (KT) nhiều lần ở trong mấy căn nhà đầu đường rất dễ kiếm trong khu mobile home trên đường Bolsa, nhiều lần tới nỗi mỗi khi xe chạy ngang đây thì Ngọc Ánh nhắc: ‘Hay ta vào thăm KT.’ Không được tiếp xúc với KT khi tôi còn ở bên Texas, chỉ liên lạc nhiều khi đã chuyển về Nam CA thôi, lúc KT đã bị lọc thận hàng chục năm rồi. Lần nào tới cũng thấy KT lọc cọc đẩy xe lăn ra mở cửa, với nụ cười hiền trên môi và cái bắt tay rất thân thiết, chí tình. Trong những lần đó, tôi cố ý nắm tay KT thiệt lâu, lâu hơn thời gian cần thiết của những cái bắt tay bằng hữu.
Tôi chạy tới nhà thương như một quán tính, tìm chỗ đậu xe một cách dễ dàng, nơi đây tôi đã ra vào quen thuộc, nơi đây tôi sắp sống với một cuộc chia ly mới. Tôi quen lắm hành lang phòng ICU, quen lắm với hình ảnh Bác Mai Thảo, Bác Đỗ Ngọc Yến, với Bố, với Mẹ... Và nay hình ảnh một thân quen quá đỗi hiện ra trước mắt - chú Khánh Trường! đang nhắm nghiền mắt, đang thoi thóp thở... Chị Hoà Bình ôm vai tôi, siết thật chặt. Hai chị em chẳng nói với nhau một lời, nhưng tôi hiểu, cả hai chị em, đang lục tìm trong quá khứ, để sống lại những ngày thật đằm thắm bên chú.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.