Hôm nay,  

HỎI hay NGÃ

02/10/202412:44:00(Xem: 2253)
blank

Những ai trong chúng ta hiện đang đi trên đại lộ me mé bên cạnh hoàng hôn của cuộc đời, tức là đã bắt đầu con đường số 6, nghĩa là đã sống hơn quá nửa cái kiếp người, chắc thế nào cũng còn nhớ kỷ niệm lần đầu tiên khăn gói lều chõng lên đường ứng thí kỳ thi mở màn cho sự nghiệp đèn sách của mình. Tôi muốn nhắc đến kỳ thi Tiểu Học, kỳ thi mà chúng ta thường gọi là “Ri-Me”, để tỏ ra là chúng ta cũng biết nói tiếng Tây, tuy chỉ là thứ tiếng Tây thuộc loại:

Tiếng Tây tôđể 3 mo,
đến khi Tây hi, tôi mò không ra

Trong kỳ thi này có một bài Chính tả mà có người còn gọi là Ám tả, có lẽ vì bài viết này quá u ám đối với các sĩ tử tí hon như chúng ta thời đó chăng? Bài chính tả được chấm 10 điểm, nếu chúng ta không viết sai lỗi nào. Và cứ mỗi lỗi là bị trừ mất một điểm. Các lỗi HỎI và NGÃ vì không quan trọng nên chỉ bị trừ ½ điểm.

Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.

Tôi thường nghĩ thầm là: HỎI hay NGÃ thì cũng “mắm sốt”. Đọc lên dù phát âm đúng hay sai, người dân Việt Nam vẫn hiểu được như thường, vậy thì hơi đâu mà phải bận tâm…

Ví dụ như:

Hi cô tát nước bêđàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

Dù ta có viết chữ “hỡi” với dấu HỎI thì ai mà lại chẳng biết chữ “hởi” có nghĩa là “ơi” là “ới” là “này”. Thế thì chữ “hỡi” viết đúng hay sai cũng không có gì là quan trọng. Chẳng lẽ viết đúng thì có tính cách thân mật hơn, lịch sự hơn, âu yếm hơn, dễ thương hơn là viết sai hay sao? Cũng như chữ “đổ”, nếu có viết sai với dấu NGÃ thì cũng không ai lại nghĩ lầm là hạt “đậu” được.

Luận điệu này của tôi đã bị người yêu của tôi chê sát ván và bảo tôi là gàn bướng quá thể (?). Nàng răn đe, phụng phiụ:

– “Cái kho tàng chữ nghĩa tuyệt vời của tiếng Việt sẽ bị những người ngoan cố như anh làm thui chột mất thôi. Viết mà đúng thì thứ nhất, chẳng ai bắt bẻ gì được mình. Nếu không á hả, có khi lại còn bị người ta cười là mình dốt nữa đấy. Thứ nhì, mỗi chữ có cái nghĩa riêng của nó, xập xí xập ngầu thế nào được. Này nhé, em BỎ công ra (dâú HỎI đây nhé) lý luận, dẫn giải lung tung như thế này, mệt lử cò bợ chứ có phải đùa đâu, thế mà anh chẳng chịu hiểu cho, vẫn cứ khăng khăng cho là mình có lý. Thật là chả BÕ cái công (dâú NGÃ đây nhé) em nói ra rả bâý lâu. Vậy thì … em BỎ anh (hứ!). Anh í à, chẳng BÕ để .. để em .. để em .. gì nhỉ ..? Đâý, anh thâý chưa, anh đã thâý tiếng Việt của mình phong phú, biến hóa tài tình như thế nào chưa? Thế mà anh nỡ lòng nào nói cùng một giọng, viết cùng một kiểu, thế thì hỏng bét! Giời ơi là giời! Anh gàn lắm! Anh cãi châỳ cãi cối! Anh… bướng!!! …v..v… “.

Các bạn có biết những cái v(ân) v(ân) chấm chấm đó, hồi mới quen Nàng, tôi đã nhặt không kịp, tôi đã hẩy đi không kịp sau những lá thư tỏ tình với Nàng không?

Người tôi yêu là dân Bắc Kỳ rau muống, các bạn ạ, chính hiệu con nai vàng. Nàng rất chi ly khi viết tiếng Việt Nam, cũng chi ly như lúc ăn bún riêu nấu với cua đồng mà dân Huế chúng tôi gọi là con “rạm”. Cọng rau muống dù nhỏ bé đến đâu cũng bị Nàng chẻ ra làm tư. Vì thế mỗi lần viết thư cho Nàng, tôi phải dùng từ điển Việt-Pháp của cụ Đào Đăng Vỹ để tra cứu các dấu HỎI-NGÃ, mà nếu có ai nhìn thấy tôi dùng từ điển Việt Pháp để viết thư chắc lại nghĩ là tôi đang viết thư cho một cô đầm nào đó, và chắc là phải phục tài ngoại ngữ của tôi ghê lắm. Kể ra thì đó cũng là một cái lợi khi bị hiểu lầm như thế. Nhưng lại là một nỗi khổ cho riêng tôi. Đã qua được kỳ thi “Ri-Me” đầu đời rồi mà vẫn phải học lại cách viết chính tả với dấu HỎI-NGÃ nhiêu khê phiền toái. Muốn tránh nỗi khổ này, tôi thường tránh né dùng những chữ có dấu HỎI-NGÃ và tìm những chữ đồng nghĩa thay thế vào.

Ví dụ, thay vì viết: “Anh nhớ Em kinh khủng” thì tôi viết “Anh nhớ Em ghê gớm”.

Nàng có chê là tôi viết không văn chương chữ nghĩa thì tôi cũng đành chịu và Nàng cũng ráng chịu, cho bõ ghét cái thói chi ly ưa vạch lá tìm sâu, sửa chữa những lỗi lầm HỎI-NGÃ.

Thật ra thì tôi cũng phải cảm ơn Nàng, vì nhờ Nàng mà tôi biết viết đúng rất nhiều chữ có dấu HỎI-NGÃ (tuy là vẫn còn sai khá nhiều). Nhưng nếu bây giờ mà cho tôi đi thi lại Ri-Me thì bài chính tả của tôi chắc chắn là xuýt nữa thì được 10 điểm, nhờ có người yêu là dân Bắc Kỳ đấy (biết rồi, khổ lắm, khoe mãi!). Lại nữa, nhờ chịu khó tìm kiếm những chữ đồng nghĩa không có dấu HỎI-NGÃ mà tôi đâm ra hoạt bát hẳn lên và rất giâù ngữ vựng.

Chẳng hạn như câu ca dao dẫn chứng trên kia tôi có thể viết như thế này:

Cô kia tát nước bêđàng
Sao cô múc ánh trăng vàng quăng đi

hay là:

Này cô tát nước bêđàng
Răng cô múánh trăng vàng dzđi

Các bạn có thấy tôi biết dùng cả chữ Huế và chữ miền Nam không? Như thế này thì người yêu của tôi làm sao mà có thể chỉ trích tôi viết sai HỎI-NGÃ được nữa chứ, hử?

Bây giờ nhé, các bạn thử xem tài biến chế của tôi để tránh dấu HỎI-NGÃ, khỏi phải sợ người yêu bắt bẻ. Thì đây, thay vì viết:

“Ngủ dậy nửa đêm, lặng lẽ, mò mẫm, mở tủ lạnh, kiếm hũ sữa bò, tìm một cái ly mủ, đổ vào lưng lửng ly, hỉ hả ngủm từng giọt nhỏ, không có gì khỏe bằng…”

Các bạn có thấy cái câu này gồm không biết bao nhiêu là dấu HỎI-NGÃ làm điên đầu những người dân miền Trung và miền Nam không? Nếu không tin tôi, các bạn (tôi không thách đố dân Bắc kỳ như người yêu của tôi) thử viết mà không được dùng từ điển như tôi, xem thử các bạn viết đúng được bao nhiêu chữ. Nhưng đừng lo, dễ lắm! Hãy bắt chước tôi tránh né:



“Thức giấc lúc 12 giờ khuya, nhẹ nhàng, rờ mò cạy frigidaire, kiếm lon nước vắt từ vú con bò cái, tìm cái ly nhựa rót vào lưng chừng ly, cười một mình, uống từng ngụm in ít một, không có gì khoái chí bằng…”

Sao, các bạn có thấy tôi tránh né thần tình chưa? Đọc lên, nghe cũng xuôi tai lắm chứ bộ? Nhưng cũng chả xong với cái tính chi ly ưa bắt bẻ của người tôi yêu, các bạn ạ.

Mỗi chữ mà tôi viết sai, Nàng thâý liền tức khắc. “Nom ngứa mắt lắm!”, Nàng nói rứa.

Thế là có ngay một màn giảng nghĩa a, dẫn chứng a, lôi các câu của những danh nhân kim cổ ra mà kể lể a, tranh luận a… thôi thì đủ điều, đủ kiểu. Nàng có cái esprit critique mà lỵ, tôi đã bảo. Mà không những thế, lại kiêm luôn cái esprit analytique nữa, giời ạ, thế thì có khổ cho cái thân tôi không cơ chứ!
Nàng thường thỏ thẻ (nguyên văn):

– Anh cứ thử tưởng tượng như thế này này, trước khi viết. Cứ thử tưởng tượng xem em sẽ nói cái chữ đó với cái giọng như thế nào, lên giọng hay xuống giọng, là anh biết sẽ phải viết với HỎI hay NGÃ ngay thôi. Ví dụ cụ thể đây nhé, cho mà thích mê tơi nhé, cho mà nhớ đời nhé, nghe đây này: anh cởi …, xuống giọng (vì nằm xuống?) dấu HỎI, đã nhớ chưa? Và rồi thì … em cỡi …, lên giọng (vì leo lên?) dấu NGÃ, nhớ chưa nào?

Gì chứ, ma bùn như tôi, cái ví dụ này là tôi khoái nhất, nhớ nhất, nhớ chết đi được, nhớ đời! Giọng nói của Nàng, ôi sao mà nó ỏn thót đến thế không biết, du dương mê ly lắm cơ, nghe mà cứ chết lịm cả người đi mất thôi, đứ đừ đừ (Dạ Lan của đài Tiếng Nói Quân Đội ngày xưa mà lỡ có dại dột đòi so tài “rù rì, dú dí” với Nàng là thua bét tỹ ngay), thế thì bảo sao mà tôi không tăm tắp tuân theo lời dạy bảo của Nàng cho được?

Và kỳ lạ chưa, sao dạo này tôi không thấy Nàng đả động gì tới hai cái dấu quái ác HỎI và NGÃ nữa thế nhỉ ??? Đã lâu lắm rồi nên tôi cũng quên mất cái cảm giác “ngẩn tò te” mỗi lần gửi thư cho Nàng xong, mong mong ngóng ngóng sốt cả ruột cú phone của Nàng, để chắc mẩm sẽ được nghe những lời lẽ cứ gọi là mềm nhũn ra vì vừa thấm đẫm những tình tự tôi trao. Nhưng không các bạn ạ, giời ạ, thay vào đó, tôi chỉ nghe những nào là:

– Chết chửa, cái chữ “xxxx” này mỗi ngày nghe cả chục lần, nói cả trăm lần, đọc cả nghìn lần, thông thường như vậy mà anh cũng viết sai cho được thì… phục anh thật cơ! Lại còn chữ “yyyy” nữa, anh viết như thế này thì em hiểu thế nào bây giờ đây, hở giời? Viết cái gì mà chữ nghĩa ý tứ lộn cứ tùng phèo hết cả, em chả hiểu gì sất !!!…

Tôi ngẩn tò te là phải. Đực người ra là phải.

Nhưng may quá, đó là cái lúc ban đầu thôi, cái thuở ban đầu lưu luyến ấy mà. Qua lâu rồi. Cái thuở mà tôi, vì ngẩn tò te nhiều quá nên đâm ra tức khí, bèn lôi một lô mấy bộ từ điển (vẫn nằm mốc meo ở ngăn tít cao trên cùng của kệ sách) để tra tra cứu cứu mỗi khi gặp phải một chữ oái oăm nào đó. Nếu có tả oán cái nỗi khổ cực của tôi vì phải đánh vật với mấy quyển từ điển những lúc viết thư tình cho Nàng, chỉ nghe Nàng phì cười, khuyến khích:

– Càng giỏi chứ sao. Người Việt mà không viết rành tiếng Việt, xấu hổ lắm, nhé.

Có rất nhiều lần sau khi xem xong thư của tôi, Nàng gọi, chỉ để bảo:

– Anh viết chữ “zzzz” này sai rồi nhé. Dấu HỎI (hay NGÃ) đâý, chứ không phải dấu NGÃ (hay HỎI) đâu. Nhé, anh nhé.

Tôi cãi, hùng hồn cãi, vì chữ này thông thường quá mà, dễ ợt, nên tôi nhất định cho rằng tôi viết như thế là đúng rồi, đúng quá xá đúng rồi. Phải là dấu NGÃ (hay HỎI) chứ, chắc chắn một triệu phần trăm. Nàng cười xòa, tự tin, rồi thách tôi tra hai cuốn từ điển khác nhau để kiểm chứng lại. Chục lần như một, chỉ vài phút sau, tiếng tôi dzọ dzẹ hẳn, âu yếm:

– Em là quyển từ điển vivant của anh. Anh viết nhầm thật. Phục thầy, “chịu” thầy ..qu..á..a..á!

Tôi “thấy”, bên kia đầu dây, Nàng cười tủm tỉm, mắt long lanh, sung sướng, và hình như mát (lắm) cái ruột nữa thì phải….

…. Gần đèn thì sáng, các bạn ạ. Nhờ quen với Nàng, nhờ sự chăn dắt của Nàng, tôi sắp có thể trở thành văn sĩ đến nơi. Một điều tất nhiên thôi. Viết nhiều, viết lắm như thế này, để ca tụng Nàng í mà, thì rồi một ngày đẹp giời nào đó cũng sẽ … bất đắc dĩ trở thành văn sĩ nổi tiếng chứ chả chơi đâu, nhỉ?
Thế đấy, cái mối tình văn chương chữ nghĩa của tôi với Nàng, kết chằng kết chịt bằng những dấu HỎI + NGÃ, và rồi khó gỡ. Nàng đã nhập hẳn vào tim, vào óc, vào… người tôi. Nàng ám ảnh tôi cả ngày lẫn đêm. Tôi đang dần dần biến thành Bắc kỳ giống Nàng. Chắc có lẽ giống y hệt rồi, giời ơi là giời, thế này thì có “sướng” cho cái thân tôi không cưa chứ!!!

Bà Già Trầu bc k nho nh ca tui ơi,
Ra ch em  ch mô?
Răng anh không thy em mò vô meo?
Nh em, héúa eo xèo
L thương nên quyếđèo queo trđời
Ti mình xa cách bin tri
Ngày mô cũng viếít li thăm nhau
Khi mô Tri khiếđụng đầu
Mi em xơi mt miếng trầu cho vui
Ba tê tri nng ui ui
Nh em chi l, anh ngi bun xo
Thương nhau em c đắđo
Bc mình em thit, em lo lo hoài
Nhiêù khi anh cũng muđoài
Hun em mt miếng bên ngoài mà thôi
Gin chơi mt tí đừng cười
Mà anh ôt dzt suđời em ơi!!!
Thương em, anh c cầu Tri
Xin cho anh gđược Người anh mê
Ngày dài tháng ln lê thê
Biết chng mô đó mình k bên nhau
Mình ngi hai đứa chđầu
Cm lòng không đậu, hun đầu em thương 

Bích Vân
(để tặng những người khổ sở vì HỎI, NGÃ)

Nguồn: https://doisongnet.wordpress.com/2013/01/20/bich-van-hoi-hay-nga/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.