Hôm nay,  

Vận Động Viên

04/10/202400:00:00(Xem: 4223)

vận động viên 
Tập Võ
 
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
 
Những năm cuối thập niên 80, ca sĩ Jennifer Rush rất thành công ở Đức. Làm quà cặp vé này, bạn của Ba rất “chịu chơi”. Những bài nhạc nhè nhẹ, ví dụ như bài The Power of Love Mẹ thích lắm. Bê nghe cũng êm tai, nên chưa quậy Mẹ. Đến khi ca sĩ Jennifer Rush vào hậu trường thay đổi xiêm y, tay trống biểu diễn màn dồn trống, cả hội trường bừng lên tiếng vỗ tay. Mẹ vui theo. Mẹ kể, hồi xưa nghe ban nhạc The Eagles trình diễn bài Hotel California, Mẹ đã có lúc mơ màng đi học đánh trống. Mẹ vui, cùng nhiều khán giả trong hội trường đong đưa theo tiếng trống. Bỗng Mẹ cảm thấy bụng đau nhoi nhói. Giống như Bê đang nhảy nhót lưng tưng trong bụng Mẹ. Mẹ đâm lo lo, sợ ồn ào, “phiền” đến Bê. Sau đó, tiếng trống dịu dần, ca sĩ trở lại sân khấu. Bê chắc mỏi chân, bớt đạp lung tung. Mẹ không yên trong bụng. Về nhà, Mẹ vội gọi Onkel Bernd để hỏi ý. Cậu Bernd không phải là bác sĩ. Cậu là hiệu trưởng trường y tá của thành phố. Nhưng cậu rất rành về y khoa. Cậu Bernd trấn an Mẹ: “Không sao đâu. Khi sóng âm thanh dồn dập, Bê nhột, Bê đạp loạn xà ngầu đó thôi. Nếu ngày nào Bê cũng bị nhột liên tục, thì không tốt. Chứ chỉ vài phút, Bê đâu hề hấn gì.”  Đó, Bê biết tập võ từ hồi trong bụng Mẹ lận.
 
Bơi Lội
 
Năm cuối ở vườn trẻ, Cô giáo ghi tên cho cả nhóm Bê đi học bơi. Mẹ Bê và các bà mẹ khác thay phiên nhau đưa đón bầy trẻ đi hồ bơi thành phố. Vào lớp một, Bê đã có bằng Cá Ngựa Seepferdchen. Sau đó Bê lấy bằng Bạc, Vàng và là thành viên câu lạc bộ bơi cứu người Rettungsschwimmen của khu phố Bê ở.
 
Thời gian Mẹ làm ngân hàng, Bê hay đến thăm Mẹ ở văn phòng trong tòa nhà Hypohaus. Lần đầu Bê đến, Mẹ dẫn Bê giới thiệu với các bác nhân viên gác cửa. Bác cho Bê tấm bưu thiếp hình Hypohaus và mấy cái nút có chữ Hypobank, Eine Bank - Ein Wort (Một ngân hàng- Một chữ tín). Dần dà, các bác quen mặt Bê. Khi Bê đến, bác đưa điện thoại cho Bê gọi Mẹ báo tin. Bê ngồi chờ Mẹ ở hàng ghế nệm, da êm thiệt là êm. Mẹ ghé qua lobby đón Bê xuống Fitness Center của ngân hàng. Hai mẹ con chơi bóng bàn, xong qua bơi. Có hồ lớn, nhưng hai mẹ con chỉ loanh quanh ở hồ con nít, Kinderbecken. Ông Bademeister, xếp sòng của hồ, rất mến Bê. Ông dạy Bê lặn. Ông thảy vòng sắt bọc nhựa đỏ xuống góc hồ, kêu Bê lặn xuống nhặt lên. Ông đứng chờ trên bờ, lúc nào cũng vỗ tay: “Hoan hô, giỏi lắm, bravo, sehr gut”.
 
Lên trung học Bê vẫn tiếp tục bơi trong câu lạc bộ. Bê từng bơi cứu người ngoài biển. Mùa hè năm đó, gia đình Bê cùng nhiều gia đình cậu dì và bạn bè nghỉ hè ở bắc Ý. Nhóm các anh chị bạn mướn thuyền phao chơi trên biển. Người trên thuyền, người bơi theo, thật vui. Bờm, nhỏ tuổi hơn nhiều, thích chí nhào bơi theo. Mới mấy sải, Bờm lóp ngóp muốn đuối, thế là Bê phóng bơi ra, túm cổ Bờm, kéo vô bờ. Bờm bị la một trận tơi bời. Mẹ kể, ngày xưa đi học ở Đại Học Sư Phạm, Mẹ và mấy bạn hay rủ nhau đi bơi hồ An Đông. Tuy vậy, Mẹ bơi lạng quạng lắm. Chỗ nào chân Mẹ chạm đáy hồ, Mẹ bơi ngon lành. Bỗng cảm tưởng nước sâu sâu, Mẹ hốt hoảng, quạt tay lia lịa, tìm cách bám vào thành hồ bơi. Đôi khi Mẹ hụt chân, uống nước sặc sụa. Vậy mà, mỗi khi Bê bơi ngoài biển, Mẹ cứ lo, Mẹ chạy dọc theo bờ biển, nói với ra: “Bê ơi, Bê ơi, bơi cẩn thận, đừng ra xa nghe con”. Tội nghiệp Mẹ ghê.
 
Tuy thích bơi, Bê cũng có lần cúp cua. Đến ngày tập luyện bơi, Bê túi xách gọn gàng, đạp xe đi. Nhưng Bê không đến hồ bơi, mà Bê đi thư viện đọc sách. Về đến nhà, Mẹ mở bao dọn dẹp áo quần, thấy khô rang. Thế là Mẹ “dợt” Bê một mách. Mẹ hỏi Bê: “Tại sao con không đi tập bơi?” Bê phân bua: “Mấy kiểu bơi ếch, sải, bướm... con đều biết hết cả rồi. Lâu lâu con bỏ một bữa, con vẫn theo kịp mấy đứa bạn. Bữa nay con thích đi đọc sách.” Mẹ nghiêm giọng: “Con nghỉ một bữa cũng được. Nhưng con phải nói cho Mẹ biết. Nhớ chưa!”
 
Đá Banh
 
Bê mê đá banh và ái mộ đội bóng FC Bayern München. Khi gia đình Bê dọn về München, Bê vào lớp hai trường tiểu học Oberföhring. Sinh nhật của Bê thời đó, bạn bè thường tặng quà áo thun, đồ chơi của khách hâm mộ đội bóng. Mẹ “quảng cáo” Bê nhiều đến nỗi đồng nghiệp của Mẹ cũng tặng quà cho Bê, mặc dù họ chưa gặp Bê bao giờ. Nào là khăn lông, hộp đựng viết có logo của FC Bayern. Bác đồng nghiệp tặng Bê bộ vớ nhựa cứng để mang bảo vệ ống quyển khi đá banh. Mỗi lần có trận đá với đội FC Bayern, Bê trang bị từ đầu đến chân tất cả trong logo đỏ trắng xanh của đội. Mặc kệ mùa hè nóng nực, Bê vẫn quấn khăn quàng cổ có logo. Bê ngồi chăm chăm trước ti-vi theo dõi trận đá. Thường, Ba coi chung với Bê, để sau đó hai cha con cùng bàn, trái này đá quá đẹp, trái kia bị phạt đền hơi uổng. Mẹ ít khi ngó ngàng tới đá banh. Nhưng Mẹ hên quá trời. Giải túc cầu thế giới năm 2006, hãng của Mẹ có 4 vé VIP đi xem trận tứ kết Á Căn Đình đá với Hòa Lan. Hãng cho 200 nhân viên bốc thăm, Mẹ là một trong 4 người trúng số. Mẹ xin nhường vé cho Bê, nhưng người ta không chịu. Cho nên, Bê phải mở lớp hướng dẫn cấp tốc cho Mẹ biết, mấy ông Stürmer, Mittelfeldspieler hoặc Verteidigung... (tiền vệ, trung vện, hậu vệ...) làm gì. Đến sân vận động, Mẹ được chỗ ở những hàng ghế đầu, nhìn qua thấy hoàng gia Hoà Lan đang chỉnh tề ngồi theo dõi trận đấu. Mẹ còn thấy một người nhỏ con, nhảy loi choi trông tức cười lắm. Chú đồng nghiệp rỉ tai Mẹ, đó là cầu thủ Maradona, nhân vật huyền thoại của thế giới bóng đá. Mẹ kể, nhờ khóa “bổ túc văn hóa” của Bê, Mẹ hiểu tàm tạm luật chơi, nên thấy hào hứng hấp dẫn quá trời. Lần khác, khi Mẹ đi làm ở Kiev, Mẹ được mời đi xem trận đấu Champion League giữa đội Real Madrid Tây Ban Nha với đội Dynamo Kiev Ukraine. Được đi coi những trận đấu long trời lở đất như vậy, mà Mẹ nói, Mẹ vẫn không thích bằng đi coi đội đá banh của Bê.
 
Chơi ở câu lạc bộ đá banh Rot-Weiß Oberföhring một thời gian, Bê xin Ba Mẹ ra khỏi hội. Mẹ hỏi lý do. Bê xụ mặt: “Tại vì đội này đá dở lắm.” Mẹ bảo: “Chơi thì có thắng, có thua.” Bê quạu cọ: “Mà đội này toàn là thua, chớ chưa bao giờ thắng đâu Mẹ.” Ba Mẹ năn nỉ: “Thôi, con ráng chơi trong câu lạc bộ cho hết năm, rồi tính sau.” Đến ngày đi tập đá banh, Bê đeo túi đồ nghề đạp xe đi. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, Bê về nhà. Bê đi thẳng vào phòng tắm, thảy áo quần “dơ” vào thùng giặt. Lát sau, Mẹ vào phòng tắm, đem mấy áo quần đá banh của Bê ra ngửi ngửi. Còn thơm phức. Mọi lần, áo quần đá banh của Bê chua lè. Ba Mẹ kêu Bê vô phòng. Giọng Mẹ không vui: “Hồi chiều đến giờ con đi đâu?” Bê ngần ngừ: “Bữa nay thứ Ba, con đi chơi đá banh như thường lệ” Mẹ lắc đầu: “Con không đá banh.” Bê ngạc nhiên quá, ngẫm nghĩ: “Ủa, sao mình làm gì Mẹ cũng biết hết trơn”. Bê thú thiệt: “Bữa trước con kể cho Ba Mẹ rồi. Con không thích đá banh với đội này nữa. Langweilig, chán lắm. Con đạp xe vòng vòng. Con xin lỗi Ba Mẹ.” Ba Mẹ nhìn nhau. Ba nói: “Được rồi, Ba sẽ viết thư xin rút tên Bê ra khỏi câu lạc bộ.”
 
Tennis
 
Bê không chơi tennis. Nhưng Bê gắn bó với những trái banh tennis một thời gian. Bê và nhóm bạn thân rất mê đá banh. Trong giờ ra chơi, cả nhóm thích đá banh. Nhưng mỗi ngày chở trái banh đến trường bằng xe đạp rất bất tiện. Ban đầu, Bê và các bạn đá banh với trái banh nhựa nhỏ xíu. Tình cờ có đứa bạn lượm được trái banh tennis cũ, cả bọn đem chơi đá banh, thích quá. Bê nhờ Mẹ xin đồng nghiệp Mẹ những trái banh cũ. Từ đó, lâu lâu Mẹ khuân về cho Bê vài trái banh của bà thư ký và của bác đồng nghiệp. Có nhiều banh, Bê và các bạn thoải mái xài, lỡ banh chui vào bụi rậm, khỏi cất công bò tìm.
 
Tự nhỏ đến lớn, Bê không quan tâm đến môn tennis. Khi Bê lên đại học, Bê phải xa nhà. Ba Mẹ ở nhà thiếu Bê, chắc buồn lắm. Bê muốn Ba Mẹ có thú vui, sinh hoạt khác để đỡ thấy trống vắng. Mùa Giáng Sinh, đại gia đình họp mặt, dịp cả nhà tặng quà cho nhau. Bê để dành tiền từ hồi đầu năm. Bê tìm mua tặng Ba Mẹ cặp vợt tennis. Bê không rành. Ra tiệm, thấy cặp vợt xuống giá, vừa túi tiền Bê, hiệu Wilson, cũng nổi tiếng. Bê gói làm quà giáng sinh. Ba Mẹ cảm động lắm. Ba Mẹ theo mấy người bạn đến câu lạc bộ lấy giờ học thử. Ông huấn luyện viên cho biết, đó là vợt cho trẻ em. Mẹ nói: “Không sao. Mẹ cao chỉ cỡ mấy đứa bé lớp tám. Vậy vợt cho mẹ cũng vừa.” Ba Mẹ chơi tennis vài lần. Mẹ không cầm cự lâu, vì tay Mẹ đã bệnh tennis arm do làm việc lâu ở computer. Tuy vậy, Ba Mẹ vẫn giữ cặp vợt tennis, kỷ niệm món quà cậu tú Bê tặng Ba Mẹ.
 
Inline Skates
 
Những năm Bê mới vào trung học, inline skates rất thịnh hành. Ba Mẹ sắm cho Bê bộ đồ nghề đầy đủ, giày, mũ an toàn, nệm che đầu gối, cùi chỏ. Mẹ phụ Bê tập loanh quanh trong sân. Mẹ nói, hồi nhỏ Mẹ cũng biết đi inline skates. Thuở đó, ở Việt Nam gọi là trượt Pa- te (Patins). Mới biết đi, Bê hăng lắm. Đi học về, Bê xin Ba Mẹ xuống sân tập dợt. Bắt đầu rành rẽ, Mẹ cho Bê đi dọc mấy con hẻm dẫn ra công viên. Mẹ đạp xe chầm chậm theo sau.

Hôm nọ, sơ sẩy thế nào Bê bị té, đập mặt xuống đất, máu chảy đỏ loét, mẻ cái răng cửa, Bê khóc bù lu, bù loa. Mẹ hết hồn, vội đưa Bê đến nha sĩ. Bê vẫn còn khóc thút thít. Bác nha sĩ đưa tay bắt, giới thiệu, hỏi han rất tự nhiên, làm như Bê là bạn của bác. Bác nói, bác rất thích đi inline skates. Nhưng khó quá, bác không tập được. Bê cảm thấy hãnh diện, vì mình giỏi hơn cả bác nha sĩ. Bê quên cả đau. Bác nha sĩ sửa sang cái răng mẻ thiệt tài tình. Mẹ rất hài lòng, về sau Mẹ chọn bác nha sĩ khám răng luôn cho cả gia đình.

Lần nọ, Mẹ cùng dì Tâm đưa mấy người bạn đi thăm Olympia Park, làng thế vận hội của München. Tình cờ công ty Coca Cola đang có chương trình khuyến mãi. Họ cho mượn giày inline skates. Ai đi xong, được tặng cái ly nhựa thật to, có hình chiếc giày bên cạnh logo của Coca Cola. Mẹ nghĩ Bê rất thích cái ly như vậy. Mẹ lại xin cái ly cho Bê. Nhưng người ta bảo, phải đi một vòng inline skates, mới được thưởng. Vậy là Mẹ phải vô mượn giày, nhờ dì Tâm và người bạn dìu Mẹ hai bên, để Mẹ biểu diễn mấy vòng. Dì Tâm lo lắng, sợ Mẹ té, gãy răng, không có mà ăn cháo. Cuối cùng, Mẹ vui mừng lại quầy trả giày và nhận quà thưởng. Bê thích món quà ấy, vì đó là công sức và lòng can đảm của Mẹ mới có được.
 
Chạy Đua
 
Từ hồi nhỏ, Bê thích chơi nhiều bộ môn thể thao. Mẹ nói, lúc nào Mẹ cũng ủng hộ Bê hết mình. Thời tiểu học Bê hơi tròn trịa. Ngoài chuyện kiểm soát nghiêm ngặt lịch ăn uống của Bê, Mẹ thường dụ Bê chơi những môn chạy lăng quăng cho tiêu bớt calories. Mẹ rủ Bê chơi bóng bàn. Mẹ đưa banh qua trái, đưa banh qua phải. Lâu lâu thuận tay, Mẹ “tiêu” hoặc “rờ-ve” một cú sấm sét, làm Bê phải chạy lượm banh bở hơi tai.

Thuở sinh viên, Bê chơi Lacrosse. Mẹ lên thăm Bê, thấy cây vợt Lacrosse. Mẹ cầm vợt ngó ngó, thắc mắc. Mẹ lúc lắc đầu, Mẹ chưa hề nghe đến môn thể thao này. Mẹ ghẹo: “Giống cái vợt vớt lá Mẹ hay xài cho hồ cá ở nhà.” Thấy môn thể thao là lạ, Mẹ kêu Bê giải thích. Khi biết đó là môn thể thao đồng đội, Mẹ hoan nghênh cả hai tay. Gọi điện thoại thăm Mẹ, hễ Bê kể mới đi chơi bóng rổ về hoặc sẽ đi chơi đá banh là Mẹ vui lắm.
 
Bây giờ Bê đã xong đại học, có nghề nghiệp. Có lẽ, Bê sẽ không còn nhiều thì giờ chơi đá banh, bóng rổ đều đặn. Mẹ cũng không kèo nài Bê chơi những môn thể thao chạy lòng vòng như hồi Bê còn nhỏ.
 
Rồi đây, Bê sẽ tham gia môn thể thao của trường đời: môn chạy đua đường trường. Môn thể thao này sẽ cam go, khó khăn hơn những trận đấu bóng với bạn bè. Mẹ nói, bây giờ Bê đã lớn. Mẹ tin rằng Bê luôn đủ sức chống chỏi trong sân vận động của trường đời. Mẹ không còn đạp xe kè kè theo sau Bê, phòng khi Bê té ngã. Ba Mẹ không trực tiếp theo dõi những trận đấu để vỗ tay khích lệ Bê. Nhưng Bê luôn nhớ lời Ba Mẹ nói: “Lúc nào Bê cũng là vận động viên hạng nhất của Ba Mẹ.” Bê nhủ lòng, Bê luôn cố gắng để đáp lại niềm tin và lòng yêu thương của Ba Mẹ.
 
Hoàng Quân
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.