Hôm nay,  

Nỗi Buồn Nobel Và Nỗi Sợ Ông Hàng Xóm

15/10/202419:45:00(Xem: 1428)

Han Kang books
Các tác phẩm đã xuất bản của nhà văn Nam Hàn vừa đoạt giải Nobel Văn Chương 2024, Han Kang.

 

 

Nhà văn Han Kang của Nam Hàn được trao giải Nobel Văn Chương 2024 và, ngoài những thông tin - bình luận bình thường, người Việt chúng ta… lại nhốn lên, ray rứt và cay đắng. [1] Người thì tự vấn tại sao chúng ta vẫn chưa, kẻ lại đau đớn khi nào đến lượt v.v. [2] Sự nhốn nháo này, tôi lấy làm nghi ngờ, chưa hẳn là do thôi thúc văn chương mà, có vẻ như, nói theo Lâm Ngữ Đường, là “nỗi sợ ông hàng xóm”.

  

Lâm Ngữ Đường kể chuyện Càn Long du Giang Nam, đứng trên ngọn núi cao nhìn xuống biển, thắc mắc hàng trăm chiếc thuyền dưới chân đang giong buồm đi đâu và một đại thần giải thích, rằng dẫu đến hàng trăm chiếc, kết lại chỉ có hai thôi, chiếc Danh và chiếc Lợi. Nghĩa là bất luận làm gì, chúng ta cũng chỉ bị chi phối bởi hai thứ danh - lợi nhưng Lâm Ngữ Đường cho là chưa đủ bởi vẫn còn đó ông hàng xóm. Nếu Democritus mơ tưởng đến một cống hiến vĩ đại cho nhân lọai bằng cách giải thoát con người ra khỏi nỗi sợ trước Thượng Đế và cái chết thì, dẫu có tin theo Friedrich Niezstch là “Thượng Đế đã chết rồi”, chúng ta vẫn phải tiếp tục khổ sở sống dưới sự chi phối của ông “Thần Thời Thượng”: hàng xóm có cái gì thì phải chạy theo cho bằng được, không theo không chịu nổi. [3]

  

Tâm lý này từng thể hiện vào năm 2000 khi Cao Hành Kiện, một nhà văn Trung Quốc lưu vong, nhận giải Nobel Văn Chương. Lúc đó Nguyễn Thanh Sơn, mau mắn và kịp thời trong tư thế một “nhà phê bình trẻ và sắc sảo” theo lời giới thiệu, đã xẹt ra như chớp sao băng với dự án “Tiếp thị cho một giải Nobel văn chương Việt Nam”:

  

“Con rắn ghen tỵ quả đã mổ trúng sống lưng của chúng ta khi nghe tin giải Nobel văn chương năm 2000 được trao cho Cao Hành Kiện, mặc dù không ai trong chúng ta biết ông ta là ai.” [4]

 
Lẽ nào? Chuyện văn chương mà trông như những thiếu niên đua đòi, tức tối trước những đời xe hay iphone mới nhất của bạn bè cùng trang lứa? Mà nhìn chung hết thì, dẫu nói về giải Nobel Văn Chương, chúng ta lại nhấp nhổm như thể học trò tiểu học chờ thầy xoa đầu cho điểm tốt, không cần biết mình có làm bài tốt hay không. Chúng ta mơ tưởng giải thưởng quốc tế nhưng chẳng buồn xây dựng thế giá cho một giải thưởng quốc gia, chỉ những giải nhếch nhác với những tiêu chí xét duyệt nhếch nhác, người trao kẻ nhận nhếch nhác và, dĩ nhiên, là những tai tiếng nhếch nhác. [5]

  

Có thấy vậy thì mới hiểu là tại sao, đến nay, sau gần một phần tư thế kỷ, cái dự án tiếp thị kia vẫn chưa có.. thị trường mà, thậm chí, tròn một giáp sau đó, khi Mạc Ngôn -- một nhà văn Trung Quốc sống tại Trung Quốc -- đoạt giải Nobel Văn Chương 2012, tác giả cũng chẳng buồn cập nhật. Phải chăng tác giả, lúc đó cũng như bây giờ, đã... miễn dịch với “nỗi sợ ông hàng xóm” và dự án nóng hổi năm xưa chỉ hòn đá ném xuống cái giếng không có đáy?

 

Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai? [6] Hơn nữa, nói theo Lâm Ngữ Đường, thì việc một trường học đào tạo được một vài nhà quán quân môn quần vợt hay túc cầu cũng không quan trọng bằng việc “tập cho toàn thể học sinh biết chơi hai môn đó”, việc một dân tộc sản sinh được một thiên tài như Auguste Rodin không quan trọng bằng việc “dạy dỗ để cho tất cả trẻ em và thanh niên trong lúc nhàn rỗi sáng tác được cái gì để tiêu khiển”. [7]

 

 Từ nét đẹp của thể lực, của tinh thần thượng võ và đồng đội đến cái đẹp tạo hình: còn trẻ mà biết yêu quý cái đẹp thì lớn lên sẽ sống đẹp nên xã hội, do đó, cũng sẽ tốt đẹp hơn. Và văn chương, với cái đẹp toát lên từ hiện thực của đời sống mà người viết tái tạo trong tác phẩm theo phong cách riêng của mình. Từng vẻ đẹp riêng như thế sẽ giúp chúng ta nhìn lại cuộc sống này bằng những cảm nhận khác hơn để thấy nó đẹp hơn và, do đó, sẽ có một đời sống tinh thần phong phú hơn. Nhưng vai trò thẩm mỹ này, có lúc, trở thành tai nạn của một quan chức văn nghệ, theo hồi ức của Tô Hoài khi dự khóa chính trị cao cấp tại Trưởng Đảng Nguyễn Ái Quốc:

 

 “Thầy triết Nga Xéptôlin khóa trước giảng chức năng mỹ học là tiêu chuẩn hàng đầu của văn nghệ rồi mới đến chức năng giáo dục vân… vân… Đến thầy dạy tôi bảo chức năng giáo dục mới là số một. Nguyễn Văn Bổng tha cái chức năng mỹ học ấy vào khu giải phóng trong chiến trường B, thế là bị tai nạn. Tôi thì chức năng giáo dục, chính qui quá, nhưng tôi cũng chẳng phát huy được hơn câu giảng”. [8]

  

Tô Hoài không nói rõ nhưng, rõ ràng, tai nạn “sai quan điểm” này, ngày ấy, thực sự là một tai họa. Mà Nguyễn Văn Bổng -- Phó Tổng thư ký Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ở Hà Nội rồi Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam -- không phải là một nhân vật nhẹ cân. Thời chiến, với bút danh Trần Hiếu Minh, chính là một trùm văn nghệ ở miền Nam để những cây bút nằm vùng, như Vũ Hạnh, có viết gì, cũng phải viết theo chỉ đạo của ông ta. Câu chuyện cho thấy nhận thức của những nhà lãnh đạo văn nghệ, bất quá, cũng chỉ ở mức “phát huy câu giảng”, thậm chí còn thay đổi xoành xoạch theo bài giảng, vốn được biên soạn theo những mệnh lệnh hay nghị quyết, cũng thay đổi xoành xoạch.

  

Quan trọng hơn, câu chuyện còn cho thấy một nền văn nghệ như thế đã mất quá nhiều thì giờ cho những chuyện không đâu. Đầu thập niên 1960, trong những năm tháng cuối đời, nhà văn Nhất Linh – người dẫn dắt chủ trương triệt để hiện đại hóa của Tự Lực Văn Đoàn vào đầu thế kỷ 20 – đã “ngộ” ra nhiều sai lầm khi nhìn lại hành trình hiện đại hóa nền văn chương ấy. Nhất Linh ngộ ra tính vớ vẩn của cuộc tranh luận “Nghệ thuật vì nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” tưởng là “hàn lâm” lắm, một thời. Nhất Linh ngộ ra sự ấu trĩ của quan niệm “văn dĩ tải đạo” – một cách hiểu khác của “chức năng giáo dục” -- mà bao nhiêu thế hệ đã tâm niệm, thậm chí tâm niệm cho đến tận bây giờ. [9]

  

Đây, có lẽ, là những yếu tố đã đè nền văn học của chúng ta thấp xuống do đã phung phí tài nguyên và tài năng cho những việc vớ vẩn. Đã vậy, bây giờ chúng ta còn phung phí cả... tiếng mẹ của mình.

  

Ngôn ngữ là chất liệu của văn chương và, trong khi mơ tưởng một giải Nobel Văn Chương, chúng ta lại rẻ rúng và, thậm chí, phá hoại ngôn ngữ của mình. Tôi sống tại một nước nói tiếng Anh và chứng kiến đất nước mới của mình bảo vệ thế giá tiếng nói của mình và, do đó, thế giá của người giữ lửa, những giáo viên môn này, khi xem đó là một trong những chìa khóa chính để giới trẻ mở cửa tương lai. Với chủ trương giáo dục này thì những ngành nghề hàng đầu -- y khoa, luật khoa hay các ngành khoa học, kỹ thuật đắt giá -- đều đòi hỏi ở thí sinh ứng tuyển khả năng Anh ngữ hàng đầu và căn cớ cũng dễ hiểu thôi. Để trở thành một chuyên gia giỏi thì, ngoài việc giỏi các vấn đề chuyên môn, người làm nghề còn phải giỏi cả khả năng tư duy nên, do đó, phải giỏi cả tiếng nói của nước mình, như là công cụ của tư duy.

 

Nhưng công cụ đó của chúng ta đang chịu thân phận… lưu đày ngay trên chính đất nước của mình trong khi người truyền lửa, những giáo viên văn Việt và tiếng Việt, thì long đong phận bên lề ngay giữa cộng đồng chức nghiệp. Vừa không đóng một vai trò quan trọng trong việc mở cửa tương lai, vừa bị xả rác một cách vô tội vạ trên các phương tiện truyền thông, tiếng Việt ngày càng bị khinh rẻ, xuống cấp.

Năm 1906, khi viết lời tựa cho Việt Nam Vong Quốc Sử bằng chữ Hán của Phan Bội Châu, nhà cải cách Trung Quốc Lương Khải Siêu – trong tư cách đồng tác giả -- đã “phân bua” với độc giả Trung Hoa rằng Hán văn của tác giả Việt Nam có đôi chỗ “chưa được nhã thuần” nhưng ông phải tôn trọng nguyên tác. [10] Thì đó là người Việt viết chữ Hán nhưng bây giờ lại là tình trạng tiếng Việt “chưa được nhã thuần” của chính người Việt, trên báo chí, trên văn bản pháp luật, và trên các bài diễn văn chính trị.

 

Khả năng ngôn ngữ của người Việt đang kém đi, kiến thức văn học và năng lực cảm thụ văn chương đang đang giảm sút và đây, hẳn nhiên, là hệ quả của của nền giáo dục, đặc biệt với cách dạy môn văn. Đề tài này đã gây nên nhiều tranh cãi và hiện vẫn còn tranh cãi nhưng, đáng chú ý hơn cả, là phân tích của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc hơn mười năm trước trong “Chuyện học văn và dạy văn”. [11]

 

Theo nhà phê bình này thì thiếu sót mang tính chiến lược trên khía cạnh sư phạm và thẩm mỹ của chương trình môn văn là “nguyên tắc thiết kế theo trình tự thời gian”: từ cấp trung học đến đại học, văn học dân gian luôn được dạy trước, văn học viết được dạy sau và, trong văn học viết, học văn học trung đại được dạy trước, sau mới đến văn học hiện đại rồi, cuối cùng, là văn học đương đại. Đây là một cách dạy cực kỳ phản sư phạm bởi không đi từ dễ đến khó, không đồng bộ và không nắm bắt đời sống văn học – ngôn ngữ đương đại:

 

“Có lẽ ai cũng đồng ý là, trừ một số ngoại lệ nào đó, với học sinh và sinh viên, một bài thơ của Xuân Diệu hay Nguyễn Bính hẳn nhiên là dễ hiểu và dễ cảm hơn một bài thơ của Tú Xương hay của Nguyễn Khuyến; và một bài thơ của Tú Xương hay của Nguyễn Khuyến hẳn nhiên là dễ hiểu và dễ cảm hơn một bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi hay của Lê Thánh Tông, v.v.”

 

Nhưng học sinh – sinh viên phải trợn mắt ra học ngược và việc này dẫn đến một tác hại khác với nhiều hệ lụy phát sinh khi tính chất văn chương của bất cứ tác phẩm nào cũng bị tính lịch sử của nó lấn át:

 

“Ưu thế của tính lịch sử cũng có nghĩa là ưu thế của các mối quan hệ tương tác chung quanh tác phẩm văn học trên chính bản thân các tác phẩm văn học ấy. Nói cách khác, khi nhấn mạnh vào tính lịch sử của vấn đề, người ta - ở đây là các thầy cô giáo - sẽ dễ có khuynh hướng tập trung vào việc giải thích tính quy luật trong quá trình phát triển của văn học hơn là chỉ tập trung phân tích những đặc điểm ngôn ngữ và thẩm mỹ của từng tác phẩm. Một khuynh hướng như thế khiến người ta tách khỏi tác phẩm như một văn bản cụ thể để sa đà vào các yếu tố ngoài văn bản như tác giả hoặc bối cảnh chính trị, xã hội và văn hoá chung quanh tác giả. Đó cũng chính là thói quen giảng dạy phổ biến nhất ở các thầy cô giáo môn Văn: vào lớp, người ta thường nói rất nhiều, nói thao thao về tiểu sử và lịch sử và ngược lại, nói rất ít và rất hời hợt về các tác phẩm văn học.[...] Điều này lại dẫn đến rất nhiều hậu quả nghiêm trọng: thứ nhất, về phương diện trí thức, chúng ta dạy cho học trò thói quen nô lệ, chỉ dựa vào lời kể của thầy cô giáo thay vì phải cố gắng tiếp cận với các nguồn tài liệu gốc; thứ hai, về phương diện đạo đức: chúng ta dạy cho học sinh nói dối; dạy cho chúng thói quen nói một cách đầy thẩm quyền về những gì, thật ra, chúng chưa từng đọc; thứ ba, về phương diện văn học, chúng ta làm cho chúng hiểu lệch hoàn toàn về cái gọi là... văn học.

[...] Một nền giáo dục và một sinh hoạt phê bình, nghiên cứu văn học như thế góp phần củng cố một thứ văn hoá văn chương ở đó văn bản hoàn toàn bị khinh rẻ vốn đã mọc rễ trong truyền thống đề cao cái "ngôn ngoại" phổ biến ở Việt Nam ngày xưa. Trong văn hoá văn chương ấy, người ta không cần đọc từng chữ mới hiểu thơ văn; không cần dựa vào chữ nghĩa khi cãi nhau; và cuối cùng, không cần dùng chữ và đặt câu đúng khi muốn làm nhà thơ và nhà văn.”

 

Mơ giải Nobel Văn Chương, chúng ta mơ về một nền văn chương lớn nhưng chúng ta quên bẵng vai trò của những độc giả lớn, là điều mà, từ thời tiền chiến, từ Thạch Lam đến Vũ Bằng và Nhất Linh đều ao ước, theo cách diễn đạt của họ là những “độc giả xứng tầm”. [12] Với cách dạy văn và cách rẻ rúng tiếng Việt nói trên thì, càng ngày, những độc giả hiếm hoi đó sẽ càng hiếm hoi hơn.

 

Dĩ nhiên là vẫn còn có nhiều yếu tố khác nữa, thí dụ như nỗi sợ cố hữu của chúng ta trước những cái mới để ngăn trở những tiến trình hiện đại hóa, tiến trình cập nhật và hấp thụ những giá trị mới mẻ của nhân loại v.v. Tuy nhiên, ở đây, qua những điều đã bàn ở trên thì, trước khi mơ đến một giải Nobel Văn Chương, hãy nghĩ đến những việc nằm trong tầm tay.

 

Hãy mơ về một thứ tiếng Việt trong sáng và “nhã thuần” trên báo chí, trên các văn bản pháp luật, trên mồm mép của những nhà truyền thông và những nhà lãnh đạo.

 

Hãy mơ về thứ tiếng Việt như một tín chỉ hàn lâm được tôn trọng như là công cụ của tư duy, bình đẵng với các môn học đắt giá khác trong thang điểm đại học với những ngành nghề cao quý hay thế giá nhất.

 

Hãy mơ về những cuộc tranh luận ở đó người tham dự hơn thua nhau bằng tri thức và chữ nghĩa.

 

Hãy mơ về một nền văn chương với những người làm nhà văn và nhà thơ biết “dùng chữ và đặt câu đúng”.

 

Mà để có được những điều như thế thì, đầu tiên, phải có một môn văn thực sự dạy... văn.

 

Nhưng để có môn học như thế thì vấn đề lại thuộc về chính sách giáo dục, nghĩa là chuyện chính trị và, đến đây, cái việc tưởng là nằm trong tầm tay lại vuột ra ngoài và, sự thể, cũng giống như câu ca dao diễu Lục Vân Tiên:

  

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô

Vân Tiên cõng mẹ chạy vô

Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra

 

Cõng cái giấc mơ Nobel chạy ra, chúng ta đụng cái cột chính sách giáo dục, liên quan đến việc dạy văn. Rồi cõng giấc mơ đó chạy vô, chúng ta đụng cái bồ chính sách văn nghệ, khăng khăng rằng văn nghệ phải có chức năng giáo dục. Thế nên, tự dưng, tôi nhớ lại cảnh Vân Tiên cứu Nguyệt Nga:

 

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”

 

Như có thể thấy, chủ đề chính bài viết này không phải là chuyện chính trị, chuyện dân bị hại mà là “Nỗi buồn Nobel” nên, do đó, đích ngắm chỉ là “thói hồ đồ” hại văn chương…

 

Nguyễn Hoàng Văn

Chú thích:

Mới đây một anh bạn liên lạc, đề nghị tôi nên viết một bài về sai lầm của một số người khi viết “Nobel Văn Học”. Việc này không đủ lớn đến mức phải viết hẳn một bài nên, nhân đây, tôi xin lưu ý rằng giải “Nobel Prizes in Literature” phải gọi là Nobel Văn Chương. Văn chương (Literature) là các sáng tác văn, thơ nói chung, nó khác với “văn học” (Literary hay Literature Study), là bộ môn nghiên cứu văn chương.

 

  1. Mới đây một anh bạn liên lạc, đề nghị tôi nên viết một bài về sai lầm của một số người khi viết “Nobel Văn Học”. Việc này không đủ lớn đến mức phải viết hẳn một bài nên, nhân đây, tôi xin lưu ý rằng giải “Nobel Prizes in Literature” phải gọi là Nobel Văn Chương. Văn chương (Literature) là các sáng tác văn, thơ nói chung, nó khác với “văn học” (Literary hay Literature Study), là bộ môn nghiên cứu văn chương.
  2. https://www.google.com/search?q=khi+n%C3%A0o+Vi%E1%BB%87t+Nam+c%C3%B3+gi%E1%BA%A3i+Nobel+V%C4%83n+Ch%C6%B0%C6%A1ng&sca_esv=04a744430a52c168&ei=ud8NZ-3YBsWk2roPkv6juAM&ved=0ahUKEwitmfmXt4-JAxVFklYBHRL_CDcQ4dUDCA8&uact=5&oq=khi+n%C3%A0o+Vi%E1%BB%87t+Nam+c%C3%B3+gi%E1%BA%A3i+Nobel+V%C4%83n+Ch%C6%B0%C6%A1ng&gs_lp=Egxnd3Mtd2l6LXNlcnAiMmtoaSBuw6BvIFZp4buHdCBOYW0gY8OzIGdp4bqjaSBOb2JlbCBWxINuIENoxrDGoW5nMggQABiABBiiBEjJBVAAWOABcAB4AJABAJgB2AGgAYADqgEFMC4xLjG4AQPIAQD4AQGYAgKgAoQDmAMAkgcFMC4xLjGgB9MC&sclient=gws-wiz-serp
  3.  Lâm Ngữ Đường (1964), Một quan niệm về sống đẹp, nguyên tác Anh ngữ The Importance of Living, xuất bản năm 1937 tại New York, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, dịch giả tự xuất bản tại Sài Gòn. Tôi trích theo bản in lại tại California, trang 92.
  4.  Nguyễn Thanh Sơn, “Tiếp thị cho một giải Nobel văn chương của Việt nam”, bài viết ký ngày 7.12.2000, đăng lần đầu tiên trong tạp chí Văn Học năm 2000, sau in lại trong Phê Bình Văn Học Của Tôi - nhà xuất bản Trẻ 2002.
  5. Thí dụ nhà thơ Hữu Thỉnh được giải thưởng của Hội Nhà Văn giữa lúc đang giữ chức Chủ tịch Hội nhà văn . Hoặc trường hợp Ly Hoàng Ly từ chối giải thưởng: “Vì sao Ly Hoàng Ly từ chối tặng thưởng của Hội Nhà văn?”

 http://nld.com.vn/168387P0C1020/vi-sao-ly-hoang-ly-tu-choi-tang-thuong-cua-hoi-nha-van.htm

 Hay một giải thưởng nhỏ hơn nhưng không kém ồn ào là Giải thưởng Văn học Đồng bằng Sông Cửu Long và bài thơ “Trăng Nghẹn” của Hoài Tường Phong

http://www.tienphong.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=192049&ChannelID=7.

 

6. Dẫn theo Mike Meyer, “Pearl of the Orient”, The New York Time, May 5th, 2006.
http://www.nytimes.com/2006/03/05/books/review/05meyer.html?_r=2&pagewanted=all&oref=slogin
 
7. Lâm Ngữ Đường, sách đã dẫn, tr. 260 – 261
8. Tô Hoài (2013), Cát bụi chân ai, Hội nhà văn – Công ty sách Phương Nam, chương 7, trang 129.
9. Nhất Linh, “Viết và đọc tiểu thuyết”, in trong cuốn Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 do Vương Trí Nhàn biên tập, (2003) , NXB Hội Nhà văn, trang 349 – 351 và tr. 339
10. Từ “phân bua” là của Phan Khôi. Phan Bội Châu soạn VNVQS nhưng Lương Khải Siêu đồng đứng tên tác giả, do đó Lương Khải Siêu “phân bua” là không sữa chữ những chỗ văn không nhã thuần nhưng không sữa chữa để “còn có chơn tích của tác giả.”
Phan Khôi, “Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta”, Tao Đàn, số 2, số ra ngày 1/4/1939.
Dẫn theo Luận về quốc học, Mai Quốc Liên biên soạn (1999), Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 338.
 
11. https://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1343&rb=0102
12. Vương Trí Nhàn biên tập, sách đã dẫn, trang 320, 397

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.